Cuộc đời của triết gia "khôn ngoan nhất" thành Athens

22/11/2021 | 491

Socrates (470-399 TCN) là một triết gia thời Hy Lạp cổ đại và là người khởi nguồn chính cho tư tưởng phương Tây. Ông được coi là thầy của các triết gia vĩ đại. Ông là một nhân vật rất bí ẩn, không hề viết ra bất cứ điều gì, hậu thế biết đến ông chủ yếu thông qua các tác phẩm do những tác giả cổ đại cùng thời kể lại, trong đó nổi bật nhất chính là người học trò xuất sắc nhất Platon.

Những câu nói đầy trí tuệ của triết gia Socrates - Nguyện Ước

Bức tượng Socrates phía trước tòa nhà Học viện Quốc gia của nhà điêu khắc người Ý Piccarelli (từ thế kỷ 19))

Tiểu sử

Sokrates sinh ra tại Alopeke, và là một người thuộc tộc Antiochis. Bố của ông là Sophroniscus, một thợ điêu khắc, hay thợ làm đá. Mẹ của ông là một bà đỡ đẻ tên là Phaenarete. 

Sokrates nhiều khả năng được học nghề của cha nên đã được dạy dỗ để trở thành một thợ điêu khắc. Theo Timon của Phlius và các nguồn sau này, Sokrates đảm nhận việc trông coi xưởng đá từ người cha. Có một lời truyền tụng cổ xưa, chưa được kiểm chứng bởi các học giả, rằng Sokrates đã tạo nên bức tượng Charites đặt gần Acropolis, tồn tại cho đến tận thế kỉ thứ II sau Công nguyên.

Không rõ Sokrates kiếm sống bằng cách nào. Các văn bản cổ dường như chỉ ra rằng Sokrates không làm việc. Trong Symposium của Xénophon, Sokrates đã nói rằng ông nguyện hiến thân mình cho những gì ông coi là nghệ thuật hay công việc quan trọng nhất: những cuộc tranh luận về triết học. Trong Mây, Aristophanes miêu tả Sokrates sẵn sàng chấp nhận trả công cho Chaerephon vì việc điều hành một trường hùng biện, trong khi ở Apologia và Symposium của Platon và sổ sách kể toán của Xénophon, Sokrates dứt khoát từ chối việc chỉ trả cho giảng viên. Để chính xác hơn, trong Apologia Sokrates đã viện dẫn rằng cảnh nghèo nàn của ông ấy là chứng cớ cho việc ông ấy không phải là một giáo viên.

Những chi tiết về thời thơ ấu của ông rất hiếm hoi, mặc dù có vẻ như ông cũng hưởng thụ một nền giáo dục bình thường của Hy Lạp cổ đại trước khi dành cuộc đời của mình cho những niềm đam mê trí tuệ khác.

Ông có niềm đam mê đặc biệt với tác phẩm của các triết gia tự nhiên, và học trò Plato cũng ghi lại những cuộc gặp gỡ của ông với Zeno xứ Elea và Parmedides khi họ tới thành Athens vào khoảng năm 450 TCN.

Bản thân Socrates không viết gì, chính vì thế những bằng chứng về cuộc đời và các hoạt động của ông đều xuất phát từ những ghi chép của Plato và Xenophon (khoảng 431-352 TCN).

Những mẩu đối thoại của Plato là một trong những bằng chứng toàn diện nhất về Sokrates vẫn còn sót lại từ thời cổ đại tới giờ, từ đó giúp cho Sokrates trở nên nổi tiếng với những đóng góp cho các lĩnh vực đạo đức học và tri thức luận. Ông chính là người thầy của Plato, người được đặt tên cho những khái niệm triết học như Sự mỉa mai Sokrates và phương pháp Sokrates, hay elenchus. Tuy nhiên, vẫn có những câu hỏi được đặt ra về việc liệu có sự khác biệt nào giữa Sokrates trong đời thực với Sokrates được khắc họa bởi Plato trong những mẩu đối thoại của mình hay không.

Socrates có một sức ảnh hưởng vô cùng mạnh mẽ đối với những triết gia sau thời kỳ cổ đại và kỷ nguyên hiện đại. Những tác phẩm văn học, nghệ thuật và văn hóa đại chúng miêu tả về Sokrates đã khiến ông trở thành một trong những hình tượng được biết đến rộng rãi nhất trong nền tư tưởng triết học phương Tây.

Ngoài những câu chuyện về tính cách kỳ lạ của Socrates, những thông tin trong Symposium của Plato còn miêu tả về ngoại hình của ông. Ông thấp người, ngoại hình của ông khá trái ngược với chuẩn mực về cái đẹp ở Athens lúc bấy giờ. Ông cũng rất nghèo, tài sản của ông chỉ có những vật dụng thiết yếu nhất cho cuộc sống. Tuy vậy, sự xấu xí về ngoại hình của ông lại không hề ngăn cản việc ông là một người cực kỳ thu hút những người xung quanh.

Tham gia quân đội

Sokrates đã từng có một thời gian phục vụ trong quân đội với vai trò là một lính hoplite, ông đã tham gia trong Cuộc chiến Peloponnisos khi thành Athens bị nghiền nát bởi người Sparta, và ông tự cho rằng mình là người can đảm. Cuộc chiến tranh không liên tục kéo dài trong suốt giai đoạn từ năm 431 đến 404 trước Công nguyên. Trong nhiều mẩu đối thoại của Plato đã có những chi tiết nhắc đến quãng thời gian hoạt động trong quân đội của Sokrates.

Alcibiades - Wikipedia

Trong đoạn độc thoại của Apology, Sokrates đã nói rằng ông đã tham gia chiến đấu trong các trận Amphipolis, Delium và Potidaea. Trong Symposium, Alcibiades đã mô tả sự dũng cảm của Sokrates trong hai trận đánh là Potidaea và Delium, đồng thời cũng kể lại việc Sokrates đã cứu mạng ông ta trong một trận chiến trước đó. Khả năng xuất sắc của Sokrates khi còn là một người lính tại Delium cũng được nhắc đến trong Laches của vị tướng cùng tên với tác phẩm này.

Trong Apology, Sokrates so sánh sự phuc vụ trong quân đội của mình với những rắc rối trong phòng xử án và ông cũng tuyên bố rằng bất cứ vị thẩm phán nào nghĩ rằng ông nên rút lui khỏi triết học cũng nên nghĩ đến những người lính nên rút lui khỏi chiến trường khi mà có vẻ như họ sẽ bị giết.

Vấn đề Socrates

Vì Socrates không viết lại bất kỳ bài giảng nào của mình, hiểu biết của chúng ta về cuộc đời và tư tưởng của ông không còn cách nào khác mà chỉ có thể đến từ những nguồn thông tin thứ cấp. Bản chất đôi khi trái ngược của những nguồn thông tin này về sau đã được đặt với cái tên vấn đề Socrates, hay nghi vấn Socrates.

Về tổng quan, những tài liệu được viết bởi Platon được xem là nguồn thông tin chủ yếu về cuộc đời và tư tưởng của Sokrates. Những bản ghi chép này được gọi là Sokratikoi logoi, hay đối thoại Socrates, bao gồm các báo cáo về những cuộc trò chuyện rõ ràng có sự tham gia của Sokrates. Ban đầu, một số học giả đã đặt ra nghi vấn về việc liệu Sokrates có phải là một nhân vật hư cấu, một phát minh của Platon hay không, tuy nhiên điều đó đã được làm sáng tỏ trong các tài liệu và các tác phẩm lịch sử khác, rằng Socrates quả thực đã từng tồn tại. Sự chứng thực của Xénophon và Aristotle, vở kịch Mây của Aristophanes và các tác phẩm khác là những nguồn thông tin hữu ích trong việc liên kết giữa một Socrates bằng xương bằng thịt với một Socrates xuất hiện trong các tác phẩm của Platon.

Tìm kiếm một hình ảnh Sokrates "thật sự" là một điều rất khó khăn bởi những tác phẩm nhắc đến ông (trừ Xenophon) thường mang tính triết lý hay mang tính kịch nhiều hơn là khắc họa lại sự thật lịch sử. Ngoài Thucydides, thật sự không có một tác phẩm tiểu sử thực thụ nào khác của những người cùng thời với Plato. Kết quả tất yếu đó là những nguồn thông tin này đã mâu thuẫn với tính chính xác của lịch sử. Do đó, các nhà sử học đã phải đối mặt với một thách thức rất lớn, đó là đối chiếu các bằng chứng khác nhau từ các văn bản còn tồn tại để cố gắng giải thích chính xác và nhất quán về cuộc sống và công việc của Sokrates. Kết quả của những nỗ lực đó là khi những thông tin được thống nhất, chúng sẽ không nhất thiết phải thực tế.

Hai yếu tố nổi bật nhất từ tất cả các nguồn thông tin liên quan đến đặc điểm của Sokrates đó là: ông có tướng mạo xấu xí (ít nhất là vào lúc ông đã lớn tuổi) và một trí tuệ tuyệt vời. Ông sống cả cuộc đời mình tại Athens cổ đại (ít nhất là kể từ khi ông gần 40 tuổi, bởi trước đó ông cũng từng tham gia phục vụ quân đội tại các chiến dịch như Potidaea, Delium,...), ông không viết bất cứ thứ gì (ít nhất là những thứ liên quan đến triết học - một đoạn thơ duy nhất do ông sáng tác vẫn còn tồn tại). Cuối đời, ông bị xử tử bằng hình thức uống sâm độc với cáo buộc bất kính với Athens.

Nhận thức

Sokrates thường nói sự khôn ngoan của ông ấy rất hạn chế để có thể nhận thức được sự ngu ngốc của ông. Sokrates tin rằng những việc làm sai là kết quả của sự ngu ngốc và những người đó thường không biết cách làm tốt hơn. Một điều mà Sokrates luôn một mực cho rằng kiến thức vốn là "nghệ thuật của sự ham thích" điều mà ông liên kết tới quan niệm về "Ham thích sự thông thái". Ông ấy không bao giờ thực sự tự nhận rằng mình khôn ngoan, dù chỉ là để hiểu cách thức mà người ham chuộng sự khôn ngoan nên làm để theo đuổi được điều đó. Điều đó gây nên tranh lụân khi mà Sokrates tin rằng con người (với sự chống đối các vị thần như Apollo) có thể thật sự trở nên khôn ngoan. Mặt khác, ông cố gắng vạch ra một đường phân biệt giữa sự ngu ngốc của con người và kiến thức lý tưởng; hơn nữa, Symposium của Platon (Phát biểu của Diotima) và Cộng hòa (Ngụ ngôn về Cái hang) diễn tả một phương pháp để tiến đến sự khôn ngoan.

Trong Theaetus của Platon Sokrates so sánh bản thân với một người làm mối đúng đắn như là sự phân biệt với một tên ma cô. Sự phân biệt này lặp lại trong Symposium của Xénophon, khi Sokrates bỡn cợt về một điều chắc chắn để có thể tạo một gia tài, nếu ông chọn để thực hành nghệ thuật ma cô. Với vai trò là một nhà truy vấn triết học, ông dẫn dắt người đối thoại tới một nhận thức sáng rõ khôn ngoan, dù cho ông không bao giờ thừa nhận mình là một thầy giáo (Apologia). Theo ông thì vai trò của ông có thể hiểu đúng đắn hơn là một bà đỡ. Sokrates giải thích rằng bản thân ông là một thứ lý thuyết khô khan, nhưng ông biết cách để làm cho thuyết của người khác có thể ra đời và quyết định khi nào họ xứng đáng hoặc chỉ là "trứng thiếu". Có lẽ theo một cách diễn đạt đặc biệt, ông ấy chỉ ra rằng những bà đỡ thường hiếm muộn do tuổi tác, và phụ nữ không bao giờ sinh thì không thể trở thành bà đỡ; một người phụ nữ hiếm muộn đúng nghĩa nhưng không có kinh nghiệm hay kiến thức về sinh sản và không thể tách đứa trẻ sơ sinh với những gì nên bỏ lại để đứa bé có thể chào đời. Để phán đoán được điều đó, bà đỡ cần phải có kinh nghiệm và kiến thức về việc mà bà đang làm.

Niềm tin triết học

Người ta khó phân biệt giữa các niềm tin triết học của Sokrates và của Platon. Có rất ít các căn cứ cụ thể cho việc tách biệt quan điểm của hai ông. Các lý thuyết dài biểu đạt trong đa số các đoạn hội thoại là của Platon, và một số học giả cho rằng Platon đã tiếp nhận phong cách Sokrates đến mức làm cho nhân vật văn học và chính nhà triết học trở nên không thể phân biệt được. Một số khác phản đối rằng ông cũng có những học thuyết và niềm tin riêng. Nhưng do khó khăn trong việc tách biệt Sokrates ra khỏi Platon và khó khăn của việc diễn giải ngay cả những tác phẩm kịch liên quan đến Sokrates, nên đã có rất nhiều tranh cãi xung quanh việc Platon đã có những học thuyết và niềm tin riêng nào. Vấn đề này còn phức tạp hơn nữa bởi thực tế rằng nhân vật Sokrates trong lịch sử có vẻ như nổi tiếng là người chỉ hỏi mà không trả lời với lý do mà ông đưa ra là: mình không đủ kiến thức về chủ đề mà ông hỏi người khác.

Nếu có một nhận xét tổng quát về niềm tin triết học của Sokrates, thì có thể nói rằng về mặt đạo đức, tri thức, và chính trị, ông đi ngược lại những người đồng hương Athena. Khi bị xử vì tội dị giáo và làm lũng đoạn tâm thức của giới trẻ Athena, ông dùng phương pháp phản bác bằng lôgic của mình để chứng minh cho bồi thẩm đoàn rằng giá trị đạo đức của họ đã lạc đường. Ông nói với họ rằng chúng liên quan đến gia đình, nghề nghiệp và trách nhiệm chính trị của họ trong khi đáng ra họ cần lo lắng về "hạnh phúc của tâm hồn họ". Niềm tin của Sokrates về sự bất tử của linh hồn và sự tin tưởng chắc chắn rằng thần linh đã chọn ông làm một phái viên có vẻ như đã làm những người khác tức giận, nếu không phải là buồn cười hay ít ra là khó chịu. Sokrates còn chất vấn học thuyết của các học giả đương thời rằng người ta có thể trở nên đức hạnh nhờ giáo dục. Ông thích quan sát những người cha thành công (chẳng hạn vị tướng tài Pericles) nhưng không sinh ra những đứa con giỏi giang như mình. Sokrates lập luận rằng sự ưu tú về đạo đức là một di sản thần thánh hơn là do sự giáo dục của cha mẹ. Niềm tin đó có thể đã có phần trong việc ông không lo lắng về tương lai các con trai của mình.

Sokrates thường xuyên nói rằng tư tưởng của ông không phải là của ông mà là của các thầy ông. Ông đề cập đến một vài người có ảnh hưởng đến ông: nhà hùng biện Prodicus và nhà khoa học Anaxagoras. Người ta có thể ngạc nhiên về tuyên bố của Sokrates rằng ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai người phụ nữ ngoài mẹ ông. Ông nói rằng Diotima, một phù thủy và nữ tu xứ Mantinea dạy ông tất cả những gì ông biết về tình yêu, và Aspasia, tình nhân của Pericles, đã dạy ông nghệ thuật viết điếu văn. John Burnet cho rằng người thầy chính của ông là Archelaus (người chịu ảnh hưởng của Anaxagoras), nhưng tư tưởng của ông thì như Platon miêu tả. Còn Eric A. Havelock thì coi mối quan hệ của Sokrates với những người theo thuyết Anaxagoras là căn cứ phân biệt giữa triết học Platon và Sokrates.

Socrates and His Teaching - Public Seminar

Phương pháp giảng dạy

Các bài dạy của ông thường được chia làm hai phần dựa trên sự đối thoại:

  • Phần thứ nhất: Phần hỏi và trả lời cho đến khi người đối thoại nhận thức là mình sai.
  • Phần thứ hai: Đây là phần lập luận: Ông giúp cho người đối thoại hiểu và tự tìm lấy câu trả lời. Ông nói: "Mẹ tôi đỡ đẻ cho sản phụ, còn tôi đỡ đẻ cho những bộ óc"

Tư tưởng của Socrates

Tư tưởng của ông luôn đề cao giá trị của đạo đức được thể hiện ở một số phương châm sống như sau:

  • "Hãy tự biết lấy chính mình."
  • "Con người không hề muốn hung ác tàn bạo."
  • "Việc gọi là tốt khi nó có ích."
  • "Đạo đức là khoa học là lối sống."
  • "Hạnh phúc có được khi nó dung hòa với đạo đức."
  • "Điều bị bắt buộc phải làm cũng là điều hữu ích."

Tư tưởng của ông đậm tính tôn giáo mặc dù ông chỉ trích các thần thoại Hy Lạp. Lời nói và những hành động của ông trong các tác phẩm như Apology, Crito, Phaedo, và Symposium đều cho thấy sự tôn trọng sâu sắc của ông đối với các phong tục tôn giáo của Athens và sự tôn kính chân thành với thần thánh.

Socrates khẳng định rằng luôn có một giọng nói thần thánh mà ông có thể nghe được từ bên trong mình trong những thời điểm quan trọng của cuộc đời ông. Đó không phải là giọng nói đưa ra cho ông những chỉ dẫn tích cực, mà là những lời cảnh báo khi ông đi chệch khỏi con đường.Trong phiên tòa bào chữa cho chính mình, Socrates kể lại câu chuyện ông từng được một nhà tiên tri nổi danh ở đền Delphi đánh giá là người khôn ngoan nhất. Socrates nói ông cảm thấy bối rối vì lời nhận xét này, bởi vì không ai biết được mức độ thiếu hiểu biết của mình ngoài chính họ.

Tuy nhiên, ông quyết tâm tìm ra sự thật trong lời của nhà tiên tri. Trong suốt nhiều năm, ông đi khắp nơi và đặt câu hỏi cho những người có nổi tiếng là khôn ngoan và những người tự nhận mình là người khôn ngoan. Ông kết luận rằng đúng là ông khôn ngoan hơn họ, bởi vì ông có thể nhận thức được sự thiếu hiểu biết của mình, trong khi họ thì không.

Socrates là bậc thầy của phương pháp lập luận truy vấn (một hệ thống được sử dụng để tranh luận). Những tác phẩm của ông khiến ông có số lượng kẻ thù cũng nhiều như số người ngưỡng mộ. Một ví dụ về điều đó có viết trong Apology của Plato.

Meletus buộc tội Socrates đã làm hư hỏng những người trẻ, hủy hoại đạo đức của họ. Socrates bắt đầu phản biện bằng việc đặt câu hỏi liệu Meletus có xem sự tiến bộ của người trẻ là quan trọng hay không. Meletus đáp: Có. Socrates hỏi: Ai có thể giúp người trẻ tiến bộ? Meletus đáp: Luật pháp. Socrates hỏi: Ngài có thể nêu tên một người hiểu về luật pháp? Meletus đáp: Các thẩm phán là người hiểu luật. Socrates hỏi: Có phải tất cả thẩm phán đều có thể chỉ dẫn và giúp người trẻ tiến bộ không hay chỉ một vài người có thể làm được điều này? Meletus đáp: Tất cả họ đều có khả năng làm việc này. Sau đó, Socrates tiếp tục buộc Meletus phải thừa nhận rằng những nhóm người khác như Thượng viện, Quốc hội và sau đó là tất cả người dân Athens đều có khả năng chỉ dẫn và giúp người trẻ tiến bộ.

Sau đó, Socrates lại bắt đầu một loạt câu hỏi tương tự về việc huấn luyện ngựa và các loài động vật khác. Có phải tất cả mọi người đều có khả năng huyến luyện ngựa không hay chỉ những người có chuyên môn và kinh nghiệm đặc biệt mới có thể làm điều này? – Socrates hỏi. Lúc này, Meletus đã nhận ra sự ngớ ngẩn trong lập luận của mình. Hắn không trả lời, nhưng Socrates đã trả lời thay. Ông nói rằng, nếu như Meletus không đủ quan tâm tới người trẻ Athens để đóng góp những ý kiến thỏa đáng cho những người có thể chỉ dẫn và giúp người trẻ Athens tiến bộ, thì ông không có quyền gì để buộc tội Socrates đã làm hư hỏng người trẻ.

Phương pháp tranh luận của Socrates bắt đầu bằng những câu hỏi khiến đối phương tin rằng người hỏi rất đơn giản, nhưng sau đó lại kết thúc bằng sự đảo ngược hoàn toàn. Vì thế, những đóng góp chủ yếu của ông không nằm ở việc xây dựng một hệ thống phức tạp, mà ở việc xóa bỏ những niềm tin sai trái và dẫn dắt con người nhận thức được sự thiếu hiểu biết của mình, từ vị trí đó họ mới có thể bắt đầu khám phá sự thật. Chính sự kết hợp độc đáo giữa kỹ năng biện chứng (sử dụng logic và lập luận trong một cuộc tranh luận) với sức hấp dẫn mạnh mẽ của ông với những người trẻ đã khiến những đối thủ của ông có cơ hội đưa ông ra xét xử vào năm 399 TCN.

Bản án & cái chết của Socrates

Sokrates đã sống trong thời kỳ thịnh vượng của thành bang Athena cho đến lúc nó suy tàn bởi người Sparta và liên minh của nó trong cuộc chiến tranh Peloponnesus. Trong lúc Athena tìm kiếm sự ổn định và phục hồi từ thất bại ê chề, nền cộng hòa dân chủ chủ nô của Athen bị nghi ngờ là làm suy yếu sự lãnh đạo của nhà nước. Sokrates xuất hiện để chỉ trích thể chế dân chủ, và một vài học giả giải thích rằng việc xét xử ông là biểu hiện của sự đấu tranh chính trị.

Mặc dù luôn thể hiện sự trung thành đến chết với thành bang, song việc Sokrates theo đuổi đến cùng lẽ phải và đức hạnh của ông đã mâu thuẫn với chiều hướng chính trị và xã hội đương thời của Athena. Ông ca ngợi Sparta, chê bai Athena, trực tiếp và gián tiếp trong nhiều cuộc đối thoại. Nhưng có lẽ hầu hết các sử liệu xác thực đều cho thấy sự đối lập của Sokrates với thành bang là ở quan điểm chỉ trích xã hội và luân lý của ông. Thích bảo vệ sự nguyên trạng hơn là chấp nhận phát triển sự phi đạo đức. Trong lĩnh vực của mình Sokrates cố gắng phá vỡ quan niệm lâu đời "chân lý thuộc về kẻ mạnh" rất thông dụng ở Hy Lạp lúc bấy giờ. Platon cho Sokrates là "ruồi trâu" của nhà nước (như một con ruồi châm chích con trâu, Sokrates châm chọc Athena). Quá đà hơn ông chọc giận các nhà quản lý với ý kiến đòi xem xét các phán quyết toà án và các quyết định. Cố gắng của ông để tăng cường ý thức của tòa án Athena có lẽ là nguồn cơn cho việc hành hình ông.

Theo Apologia của Platon, cuộc đời như "ruồi trâu" của Athen bắt đầu khi bạn ông Chaerephon hỏi nhà tiên tri ở Delphi rằng liệu có ai thông thái hơn Sokrates; nhà tiên tri trả lời rằng không ai thông thái hơn. Sokrates tin rằng nhà tiên tri đã đưa ra một nghịch lý, bởi ông tin rằng ông không biết gì cả. Sau đó ông giải đáp bí ẩn bằng cách hỏi những người được cho là khôn ngoan ở Athena, như là chính khách, thi sĩ hay thợ thủ công nhằm bác bỏ những lời nhà tiên tri nói. Nhưng sau khi hỏi họ, Sokrates đi đến kết luận, khi một người cho rằng anh ta biết rất nhiều, thì thực ra, anh ta biết rất ít hoặc không biết gì cả. Sokrates nhận ra rằng nhà tiên tri đã đúng, những người được cho là khôn ngoan nghĩ rằng họ biết nhiều trong khi thực tế thì ngược lại, tự ông cũng biết rằng mình chả thông thái chút nào, nghịch lý thay, lại khiến ông là người khôn ngoan duy nhất vì ông nhận thức được sự ngu dốt của mình. 

Cuộc đời và cái chết của triết gia 'khôn ngoan nhất' thành Athens
Nhà tù nơi đã giam giữ Socrates ở Athens, Hy Lạp

Nghịch lý sự khôn ngoan của Sokrates đã khiến những người đứng đầu ở Athena mà ông từng đố công khai cảm thấy mình trở nên ngốc nghếch, nên họ đã quay lại chống lại ông và dẫn tới việc buộc tội những hành vi sai trái. Sokrates bảo vệ vai trò của ông như ruồi trâu đến cùng. Trong tù, khi ông được hỏi về đề xuất với hình phạt của chính ông, ông đề nghị được chính phủ trả lương tuần và bữa tối miễn phí để bù vào khoảng thời gian ông phải nghỉ, cung cấp tiền cho thời gian ông giúp ích cho thành Athen. Tuy thế ông vẫn bị khép vào tội làm hư hỏng đầu óc của thanh niên Athen và bị kết án tử hình bằng việc uống một loại độc dược bào chế từ cây độc cần.

Theo như sử liệu của Xénophon, Sokrates có chủ đích thách thức bồi thẩm đoàn vì "ông ấy tin rằng ông ấy nên tự tử thì hơn". Xénophon tiếp tục mô tả sự kháng cự Sokrates như là giải thích sự nghiêm khắc của người già và Sokrates vui mừng như thế nào khi lừa được họ kết án ông tử hình. Điều đó giúp ta hiểu ra rằng Sokrates cũng ước muốn được chết bởi ông "thật sự tin cuộc đời thực của ông sẽ đến khi ông chết" Xénophon và Platon đồng ý rằng Sokrates có một cơ hội giải thoát và những người tin theo ông có thể đút lót lính coi ngục. Ông chọn ở lại bởi mấy lý do sau:

  1. Ông tin rằng sự trốn chạy là biểu hiện của sự sợ hãi cái chết, bởi ông tin không triết gia nào làm thế.
  2. Nếu ông trốn khỏi Athena, sự dạy dỗ của ông không thể ổn thỏa hơn ở bất cứ nước nào khác như ông đã từng truy vấn mọi người ông gặp và không phải chịu trách nhiệm về sự không vừa ý của họ.
  3. Bằng sự chấp thuận sống trong khuôn khổ luật của thành bang, ông hoàn toàn khuất phục chính bản thân ông để có thể bị tố cáo như tội phạm bởi các công dân khác và bị tòa án của nó phán là có tội. Mặt khác có thể ông bị kết tội vì phá vỡ sự "liên hệ cộng đồng" với Nhà nước, và gây tổn hại đến Nhà nước, một sự trái ngược so với nguyên lý của Sokrates.

Lý do đầy đủ ẩn chứa sau lời từ chối trốn chạy của ông là chủ đề chính của vở kịch Criton. Tác phẩm Crito của Platon đã kể về những nỗ lực của Crito trong việc thuyết phục Socrates trốn khỏi nhà tù, nhưng trong một cuộc đối thoại của Socrates với Luật pháp Athena, ông đã bày tỏ sự tôn kính của mình với thành phố này và kiên quyết tuân theo luật pháp của nó ngay cả khi điều đó khiến ông phải chết.

Trong tác phẩm Phaedo, Plato đã kể lại cuộc tranh luận của Socrates về sự bất tử của linh hồn. Kết thúc cuộc đối thoại, một trong những cảnh tượng xúc động và kịch tính nhất trong văn học cổ đại đã diễn ra – đó là cảnh Socrates nâng ly thuốc độc trong khi bạn bè ông ngồi xung quanh đầy bất lực. 

Cuộc đời và cái chết của triết gia 'khôn ngoan nhất' thành Athens
Một bức họa miêu tả lại thời điểm Socrates uống thuốc độc trước mặt những người bạn

Cái chết của Sokrates được diễn tả ở phần cuối của cuốn Phaedon của Platon. Sokrates bác bỏ lời cầu xin của Criton để cố gắng thử trốn khỏi tù. Sau khi uống độc dược, ông vẫn được dẫn đi dạo cho đến khi bước chân ông trở nên nặng nề. Sau khi ông gục xuống, người quản lý độc dược véo thử vào chân ông. Sokrates không còn cảm giác ở chân nữa. Sự tê liệt dần dần lan khắp cơ thể ông cho đến khi nó chạy vào tim ông. Không lâu trước khi ông chết, Sokrates trăng trối với Crito: "Crito, chúng ta nợ một con gà trống với Asclepius. Làm ơn đừng quên trả món nợ đó".

Asclepius là thần chữa bệnh của người Hy Lạp, và những lời cuối cùng của Sokrates nghĩa là cái chết là cách chữa bệnh và sự tự do là việc tâm hồn thoát ra khỏi thể xác. Nhà triết học La Mã Seneca đã thử bắt chước cái chết của Sokrates khi bị ép tự tử bởi Hoàng đế Nero.

Những câu nói nổi tiếng của Socrates:              

1. "Hiểu biết đích thực là biết rằng mình không biết gì cả".

2. "Một cuộc sống mà không không có thử thách là một cuộc sống không đáng để sống".

3. "Điều tốt đẹp duy nhất là kiến thức, điều xấu xa duy nhất là sự thờ ơ".

4. "Tôi không thể dạy ai một thứ gì. Tôi chỉ có thể khiến họ suy nghĩ".

5. "Đối xử tốt với mỗi người bạn gặp là một trận chiến khó khăn".

6. "Những bộ óc lớn thảo luận về những ý tưởng, bộ óc trung bình bàn luận về những sự kiện còn những bộ óc non yếu chỉ nói chuyện về con người".

7. "Dù gì thì cũng nên kết hôn, nếu lấy được người vợ hiền thì bạn sẽ hạnh phúc; nếu không, bạn sẽ trở thành một triết gia".

8. "Người không hài lòng với những gì anh ta có cũng sẽ không hài lòng với những gì ảnh ta sẽ có".

9. " Đôi khi bạn dựng lên những bức tường không phải để ngăn cách với mọi người, mà để xem ai đủ quan tâm phá bỏ nó".

10. "Trí tuệ bắt nguồn từ những điều kì diệu".Thắm Lê tổng hợp theo wikipedia, vietnamnet.vn & Người nổi tiếng (Youtube)


(*) Xem thêm

Bình luận