Blaise Pascal - Nhà khoa học phát minh ra máy tính cơ học đầu tiên
Blaise Pascal là một trong những nhà toán học, vật lý học danh tiếng người Pháp. Ông được ghi nhận là người đã phát minh ra một chiếc máy tính cơ đầu tiên đáng kinh ngạc vào thời đó, được gọi là Pascaline.
Đầu đời
Blaise Pascal sinh tại Clermont vào ngày 19 tháng 6 năm 1623, là con thứ hai trong ba người con của Étienne và Antoinette Bégon Pascal (1596–1626). Étienne Pascal (1588–1651) là một quan tòa địa phương và người thu thuế tại Clermont, và bản thân có một số danh tiếng khoa học, một thành viên của tầng lớp quý tộc và chuyên nghiệp ở Pháp được gọi là quý tộc áo choàng . Gilberte, chị gái của Blaise (sinh năm 1620) là người viết tiểu sử đầu tiên của ông; em gái của ông là Jacqueline (sinh năm 1625) được ca ngợi là một nhà thơ và nhà viết kịch trước khi trở thành một nữ tu sĩ.
Mẹ qua đời khi ông lên 3 tuổi. Cha ông chuyển cả gia đình đến Paris vào năm 1631. Ông không chịu tái hôn, vì một phần là theo đuổi các nghiên cứu khoa học, hơn nữa muốn tự mình giáo dưỡng con cái bởi vì cả 3 đều đặc biệt xuất sắc về trí tuệ, nhất là cậu con trai. Từ bé, Pascal đã thể hiện năng khiếu đáng kinh ngạc về toán và khoa học. Blaise Pascal được giữ ở nhà để đảm bảo anh không bị làm việc quá sức, và cha anh chỉ đạo rằng việc học của anh ban đầu chỉ nên giới hạn trong việc học ngôn ngữ. Ông yêu cầu rằng toán học không được giới thiệu cho đến khi con trai ông 15 tuổi.
Điều này tự nhiên kích thích sự tò mò của cậu bé, và một ngày nọ, khi đó 12 tuổi, cậu hỏi hình học là gì. Gia sư của ông trả lời rằng đó là khoa học của việc xây dựng các con số chính xác và xác định tỷ lệ giữa các phần khác nhau của chúng. Blaise Pascal, không nghi ngờ gì về lệnh cấm đọc nó, đã dành thời gian vui chơi cho nghiên cứu mới này, và trong vài tuần đã tự khám phá ra nhiều tính chất của các hình, và đặc biệt là mệnh đề rằng tổng các góc của một tam giác bằng hai góc vuông. Để đáp lại, cha ông đã mang cho ông một bản sao của Euclid. Là một thiên tài từ khi còn nhỏ, Blaise Pascal đã sáng tác luận thuyết về sự giao tiếp của âm thanh vào năm 12 tuổi.
Pascal đặc biệt yêu thích một nghiên cứu của Desargues về đường cô-nic. Bước theo tư duy của Desargues, cậu thiếu niên Pascal 16 tuổi viết một tiểu luận về cái gọi là "Mystic Hexagram", Essai pour les coniques, rồi gởi cho Marin Mersenne ở Paris; nổi tiếng cho đến ngày nay như là Định lý Pascal.
Những nghiên cứu của Pascal quá xuất sắc đến nỗi Descartes tin rằng cha cậu mới là người viết ra chúng. Khi Mersenne quả quyết rằng đó là thành quả của cậu con trai chứ không phải ông bố, Descartes không tin, "Tôi không thấy lạ khi tác giả trình bày về conic chính xác hơn những người đi trước," ông tiếp, "Nhưng khó có thể một cậu bé 16 tuổi đề xuất được những vấn đề khác liên quan đến chủ đề này".
Ở tuổi 14, Blaise Pascal được nhận vào các cuộc họp hàng tuần của Roberval, Mersenne, Mydorge, và các nhà hình học Pháp khác, từ đó, Học viện Pháp được thành lập.
Năm 1642, với mong muốn giúp đỡ cha trong công việc tính toán triền miên về những khoản trả thuế và nợ thuế, Pascal, chưa tròn 19 tuổi, chế tạo một máy tính cơ học có thể thực hiện phép cộng và trừ, được gọi là máy tính Pascal hoặc Pascaline. Musée des Arts et Métiers ở Paris và Bảo tàng Zwinger ở Dresden, Đức, trưng bày 2 trong số những máy tính cơ học nguyên thủy này. Mặc dù những máy tính này là tiền thân của kỹ thuật máy tính hiện đại, chúng không đạt được thành công đáng kể nào về thương mại. Do giá quá mắc, chúng trở thành một biểu tượng về địa vị xã hội, chỉ dành cho giới giàu có ở Pháp và khắp Âu châu. Pascal tiếp tục cải tiến thiết kế, trong thập niên kế tiếp ông chế tạo cả thảy 20 máy tính.
Trong thời gian này ông thường xuyên thư từ với Fermat cho thấy rằng ông đang chuyển sự chú ý của mình sang hình học phân tích và vật lý. Ông lặp lại các thí nghiệm của Torricelli, theo đó áp suất của khí quyển có thể được ước tính như một trọng lượng, và ông xác nhận lý thuyết của mình về nguyên nhân của các biến đổi khí áp bằng cách thu được cùng số đọc tức thì ở các độ cao khác nhau trên đồi Puy-de-Dôme.
Trong suốt cuộc đời mình, Pascal luôn có ảnh hưởng trên nền toán học. Năm 1653, ông viết Traité du triangle arithmétique ("Chuyên luận về Tam giác Số học") miêu tả một biểu mẫu nay gọi là Tam giác Pascal. Tam giác này có thể được trình bày như sau:
Tam giác Pascal. Mỗi con số là tổng của hai con số ngay bên trên.
Ở những hàng tiếp theo: Hàng đầu tiên là con số 1, hàng kế tiếp là 2 con số 1.
- Con số đầu tiên và con số cuối cùng bao giờ cũng là 1;
- Mỗi con số bên trong sẽ bằng tổng của 2 con số đứng ngay ở hàng trên:
1+1=2, 1+2=3, 2+1=3, 1+3=4, 3+3=6, 3+1=4, v..v…
Phát minh
Pascaline
Ý tưởng sử dụng máy móc để giải quyết các vấn đề toán học có thể được bắt nguồn từ ít nhất là từ đầu thế kỷ 17 . Các nhà toán học đã thiết kế và triển khai các máy tính có khả năng cộng, trừ, nhân và chia bao gồm Wilhelm Schickhard, Blaise Pascal và Gottfried Leibniz.
Pascal đã phát minh ra máy tính bánh xe số của mình có tên là Pascaline để giúp cha mình, lúc đó là một nhân viên thu thuế người Pháp, tính thuế. Pascaline có tám mặt số có thể di chuyển được cộng với tám tổng dài được tính toán và sử dụng cơ số mười. Khi mặt số đầu tiên (cột một) di chuyển 10 khía, mặt số thứ hai di chuyển một khía để biểu thị số đọc cột hàng chục là 10. Khi mặt số thứ hai di chuyển 10 khía, mặt số thứ ba (cột hàng trăm) di chuyển một khía để biểu thị một trăm, và như thế.
Máy quay Roulette
Blaise Pascal đã giới thiệu một phiên bản rất sơ khai của máy roulette vào thế kỷ 17. Cò quay là sản phẩm phụ của nỗ lực của Blaise Pascal nhằm phát minh ra một cỗ máy chuyển động vĩnh viễn.
Đời sống tâm linh
Triết học
René Descartes (1596 – 1650) và Blaise Pascal (1623 – 1662) là hai nhà tư tưởng vĩ đại của nước Pháp và thế giới, sống cùng thời nhưng đối lập trong cái nhìn về sức mạnh của tư duy duy lý. Nếu Descartes đề cao tư duy duy lý như công cụ nhận thức mạnh nhất thì Pascal lại chỉ ra chỗ yếu của kiểu tư duy này và nhấn mạnh vai trò của trực giác. Nếu Descartes có ảnh hưởng rộng khắp vì sự thắng thế của chủ nghĩa duy lý trong mấy thế kỷ vừa qua thì Pascal có ảnh hưởng hẹp hơn, thậm chí bị nhiều người lãng quên vì tinh thần phê phán của ông đối với chủ nghĩa duy lý, và hơn nữa, vì đức tin tôn giáo rất mực thuần thành của ông. Nếu Descartes nổi tiếng với câu châm ngôn “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại” (Cogito Ergo Sum) và cuốn “Luận văn về Phương Pháp” (Discours de là méthode) thì Pascal nổi tiếng như một thần đồng toán học và đặc biệt, vì cuốn “Pensées” (Tư tưởng) – một tuyệt tác triết học thâm thuý đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Vì Pascal trước hết là một nhà toán học, nên một trong những chủ đề triết học được ông thảo luận sâu sắc nhất là triết học toán học, hay nói rộng ra là triết học về nhận thức – triết học về những con đường nhận thức khác nhau và về giới hạn của nhận thức duy lý.
Đóng góp của Pascal cho triết học toán học chủ yếu nằm trong tác phẩm “ Về tinh thần hình học và Nghệ thuật thuyết phục ” (De l’Esprit géométrique et de l’Art de persuader), được viết vào khoảng năm 1658, bao gồm hai phần:
Phần I: “Về Tinh thần Hình học” (De l’Esprit Géométrique)
Phần II: “Về Nghệ thuật thuyết phục” (De l’Art de persuader).
Trong đó Pascal chỉ ra rằng dù toán học chặt chẽ đến mấy, nhưng xét đến cùng nó vẫn phải dựa trên những mệnh đề đầu tiên không thể chứng minh, được gọi là các tiên đề (axioms).
Blaise Pascal là người đầu tiên đặt dấu hỏi về nền tảng của toán học thông qua Hình học Euclid. Vấn đề ông đặt ra là :
Hệ tiên đề của Hình học Euclid có đủ chắc chắn và đáng tin cậy không?
Đó là một cảnh báo sớm đối với niềm tin tuyệt đối vào tư duy lý trí. Pascal không dừng lại ở cảnh báo đó, mà lập luận rằng toán học cuối cùng vẫn phải dựa trên một loại “đức tin” – niềm tin vào các tiên đề đã được lựa chọn. Nếu bạn muốn chứng minh các tiên đề đã lựa chọn, chắc chắn bạn lại phải dựa vào những tiên đề mới, cũng do trực giác chọn ra. Cứ như thế bạn có thể mở rộng hệ tiên đề của mình mãi mãi không có điểm dừng. Rốt cuộc, không có cách nào để chứng minh hệ tiên đề đã được lựa chọn là hoàn toàn chắc chắn, ngoài niềm tin dựa trên trực giác.
Tóm lại, triết học toán học của Pascal đưa chúng ta tới chỗ buộc phải đối diện với câu hỏi vượt ra ngoài phạm vi toán học, đó là vấn đề hiện hữu của Chúa. Hoá ra chính toán học chứ không phải thần học buộc chúng ta phải trả lời câu hỏi “hệ tiên đề đến từ đâu?”.
Nói cách khác, theo Pascal, chủ nghĩa duy lý chỉ có sức mạnh giới hạn, và sẽ đến lúc nó phải nhường chỗ cho tư duy cảm thụ, do đó: “Bước cuối cùng của lý lẽ là nhận ra rằng tồn tại vô số thứ ở phía bên kia tầm với”.
Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia, trong tiểu luận “Về nghệ thuật thuyết phục” (L’Art de persuader), Pascal “ nhấn mạnh rằng những nguyên lý đầu tiên này chỉ có thể nắm bắt được bằng trực giác, và rằng sự thật này khẳng định sự cần thiết phải nhờ cậy đến Chúa trong việc khám phá chân lý ”
Với tinh thần phê phán chủ nghĩa duy lý, Pascal không được nhiều nhà khoa học và triết học duy lý ủng hộ. Đó là lý do đa số mọi người chỉ biết đến Pascal như một thần đồng toán học và một nhà khoa học vĩ đại, nhưng hầu như không biết gì về triết học vô cùng sâu sắc của Pascal. Nhưng Định lý Gödel buộc chúng ta phải tìm hiểu lại Pascal một cách đầy đủ, bởi lẽ, tư tưởng của ông chính là tư tưởng của Gödel ba trăm năm sau.
Các tác phẩm:
Lettres provinciales (Những lá thư tỉnh lẻ)
Đêm 23 tháng 11 năm 1654 khoảng giữa 10:30 đến 12:30, Pascal trải qua một nhận thức tôn giáo dữ dội đến nỗi ông vội ghi lại trải nghiệm này, "Lửa. Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Jacob, không phải của những triết gia và các học giả..." rồi kết thúc bằng cách trích dẫn Thi Thiên 119: 16. "Tôi sẽ không quên lời Chúa. Amen." Ông cẩn thận khâu ghi chép này vào áo khoác, mỗi khi thay áo ông lại khâu nó vào chiếc áo mới; chỉ sau khi Pascal mất, một người hầu mới phát hiện điều này. Văn kiện được biết đến ngày này như là Memorial. Niềm tin và lòng mộ đạo được phục hưng, Pascal đến thăm tu viện Port-Royal, và ở lại đó hai tuần trong tháng 1 năm 1655. Suốt bốn năm kế tiếp, ông thường xuyên đến Port-Royal. Chính là từ thời điểm ngay sau khi qui đạo, Pascal khởi sự viết tác phẩm văn chương quan trọng đầu tiên của ông xoay quanh chủ đề tôn giáo, Lettres provinciales.
Từ năm 1656, Pascal bắt đầu công kích một phương pháp gọi là casuistry (ngụy lý) thường được những nhà tư tưởng Công giáo sử dụng trong thời kỳ này (đặc biệt là các tu sĩ dòng Tên, nổi bật nhất là Antonio Escobar). Pascal xem ngụy lý là cách sử dụng những lập luận phức tạp nhằm biện minh cho sự băng hoại đạo đức và mọi thứ tội lỗi. Một chuỗi 18 lá thư được xuất bản từ năm 1656 đến 1657 dưới bút danh Louis de Montalte đã khiến Louis XIV giận dữ. Năm 1660, nhà vua ra lệnh xé bỏ và đốt cuốn sách này. Đến năm 1661, ngay giữa lúc bùng nổ cuộc tranh cãi giữa nhóm Jansen và các tu sĩ dòng Tên, trường học của nhóm Jansen ở Port-Royal bị đóng cửa; nhà trường buộc phải cam kết theo chỉ dụ Giáo hoàng năm 1656 kết án giáo huấn của Jansen là tà giáo. Bức thư cuối cùng của Pascal viết năm 1657 đả kích Giáo hoàng Alexander II. Mặc dù công khai chống đối những bức thư này, Giáo hoàng cũng bị thuyết phục trước những luận cứ của Pascal.
Bên cạnh những ảnh hưởng tôn giáo, Lettres provinciales được yêu thích như là một tác phẩm văn chương. Thủ pháp trào phúng, chế giễu, và châm biếm được Pascal sử dụng cho những lập luận của ông đã thu hút sự chú ý của công chúng, cũng như đã có ảnh hưởng đến những tác phẩm văn xuôi của các tác giả người Pháp hậu sinh như Voltaire và Jean-Jacques Rousseau.
Pensées
Tác phẩm thần học có nhiều ảnh hưởng nhất của Pascal, sau khi ông mất được gọi là Pensées (Suy tưởng), chưa kịp hoàn tất trước khi tác giả qua đời. Đây là một tác phẩm biện giáo mạch lạc và chặt chẽ cho đức tin Cơ Đốc, với tựa đề ban đầu là Apologie de la religion Chrétienne (Biện giải cho Cơ Đốc giáo).
Phiên bản đầu tiên gồm những tờ giấy rời tìm thấy sau khi Pascal mất được in thành sách năm 1669 có tựa Pensées de M. Pascal sur la religion, et sur quelques autres sujets (Những suy tưởng của M. Pascal về tôn giáo, và về một số chủ đề khác) chẳng bao lâu trở thành một tác phẩm kinh điển. Một trong những chiến lược chính của cuốn Apologie là sử dụng hai triết lý sống đối nghịch nhau, hoài nghi và khắc kỷ, thể hiện qua tính cách của Montaigne và Epictetus nhằm đẩy người không có niềm tin vào tình trạng tuyệt vọng và hoang mang để rồi cuối cùng chấp nhận đến với Chúa.
Nhiều người xem cuốn Pensées của Pascal là một kiệt tác, một dấu mốc cho văn xuôi Pháp. Nhà phê bình văn học Sainte-Beuve ca ngợi một trong những phân đoạn của cuốn sách (Suy tưởng #71) là những trang viết tinh túy nhất trong tiếng Pháp. Will Durant tán dương Pensées như là "quyển sách có sức thuyết phục mạnh mẽ nhất trong văn xuôi Pháp." Trong Pensées, Pascal xem xét một số nghịch lý triết học: vô hạn và hư vô, đức tin và lý trí, linh hồn và vật chất, sự chết và sự sống, ý nghĩa và sự hư không của cuộc sống.
Tư tưởng của Pascal tập trung trong cuốn PENSÉES (Suy tưởng), tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, được xuất bản lần đầu tiên năm 1669, bẩy năm sau khi ông mất, trong đó ông viết :
“ Bước cuối cùng của lý lẽ là nhận ra rằng tồn tại vô số thứ ở phía bên kia tầm với ” .
Thông điệp của tác giả rất rõ ràng:
Tư duy lý lẽ dù có giỏi đến mấy, rốt cuộc cũng chỉ đạt tới một ngưỡng nhất định không thể vượt qua. Bên kia cái ngưỡng ấy có rất nhiều sự thật mà con người muốn biết và rất nên biết, nhưng tư duy lý lẽ bất lực. Muốn vượt ngưỡng – muốn nắm bắt được những sự thật ở bên kia tầm với – con người phải vận dụng TRỰC GIÁC, cái mà Pascal thường gọi là khả năng nhận thức bằng trái tim. Ông nói:
“ Chúng ta nhận biết chân lý không chỉ bởi lý lẽ, mà còn bằng trái tim ”.
Thậm chí ông cho rằng trực giác có thể nhận biết được những sự thật mà lý trí bất lực :
“ Trái tim có những lý lẽ của nó mà lý trí chẳng hiểu gì cả ”
Tại sao vậy ? Vì trực giác không bị giới hạn bởi hệ tiên đề, trong khi lý trí thì bị giới hạn.
Cuốn Pensées được viết theo kiểu liệt kê, đánh số từng câu. Rất nhiều câu đã trở thành châm ngôn đi vào lịch sử, được người đời trích dẫn rất nhiều, vì chúng quá sâu sắc. Nhưng bao nhiêu người thực sự hiểu được chiều sâu của những triết lý đó? Có một thực tế là, trong khi nhà trường dạy cho học trò nhiều thành tựu khoa học của Pascal như Tam giác Pascal, Định luật thủy tĩnh Pascal, Lý thuyết xác suất,… nhưng tuyệt nhiên không bao giờ nhắc đến triết học Pascal, tư tưởng tôn giáo của Pascal.
Tại sao vậy? Vì triết học của Pascal đi ngược với trào lưu đương thời – trào lưu tôn sùng khoa học, tôn sùng tư duy duy lý, tư duy chứng minh. Vì thế, chủ nghĩa duy lý không ưa triết học của Pascal, tương tự như sau này, người ta cũng không ưa Định lý Bất toàn của Gödel.
Triết lý đặt cược của Pascal
Mặc định rằng con người đặt cược cuộc đời mình để xem Thiên Chúa hiện hữu hay không hiện hữu. Sẽ được hoặc mất (cả hai đều có giá trị vô hạn) phụ thuộc vào việc có niềm tin hay không, triết lý đặt cược của Pascal lập luận rằng một người có lý trí sẽ sống như thể Chúa thực sự hiện hữu, vì vậy mà tin Ngài. Còn nếu Chúa không hiện hữu, người ấy sẽ chẳng mất mát gì nhiều (một số lạc thú chóng qua, cuộc sống xa hoa ở trần gian,.v..v..).[21] Triết lý này theo logic sau (trích từ Pensées, phần III, §233):
- "Thiên Chúa hiện hữu hay không hiện hữu"
- Trò chơi ném đồng tiền để xem... mặt sấp hay mặt ngửa.
- Bạn chỉ có thể chọn một trong hai.
- Vì vậy, bạn phải đặt cược (không có chọn lựa nào khác).
- Hãy cân nhắc xem khi đặt cược Chúa hiện hữu bạn sẽ được gì, mất gì. Sẽ có hai tình huống: Nếu thắng, bạn được tất cả; nếu thua, bạn chẳng mất gì.
- Vậy thì, đừng ngại ngần gì mà hãy đặt cược Chúa hiện hữu. Bạn sẽ có một thế giới vĩnh cửu với cuộc sống hạnh phúc vô hạn ở đó.
Qua đời
T. S. Eliot miêu tả Pascal như là "một kẻ trần tục giữa những người khổ hạnh, và một kẻ khổ hạnh giữa những người trần tục." Nếp sống khổ hạnh của Pascal xuất phát từ niềm tin rằng sự đau khổ là điều tự nhiên và cần thiết cho thân phận con người. Năm 1659, Pascal lâm bệnh. Suốt những năm cuối đời, ông thường cố tránh bác sĩ, "Bệnh tật là điều tự nhiên đối với tín hữu Cơ Đốc."
Trong năm 1661, Louis XIV ra tay đàn áp phong trào Jansen ở Port-Royal. Pascal viết một trong những cuốn sách sau cùng của ông, Écrit sur la signature du formulaire, khích lệ những người Jansen đừng bỏ cuộc. Cuối năm 1661, em gái ông Jacqueline qua đời khiến Pascal ngưng những bài bút chiến tranh luận về thuyết Jansen. Lúc này Pascal quay lại với thiên tài khoa học của mình, phát minh điều có lẽ là lộ trình xe buýt đầu tiên, chuyển vận hành khách trong nội thành Paris trên một chiếc xe có nhiều chỗ ngồi.
Năm 1662, bệnh trở nặng, tình trạng tâm lý của Pascal càng tồi tệ hơn sau cái chết của em gái. Ông từ trần ngày 19 tháng 8 năm 1662 tại Paris. Ông được an táng tại nghĩa trang Saint-Étienne-du-Mont.
Khám nghiệm tử thi Pascal cho thấy có vấn đề nghiêm trọng với dạ dày và các cơ quan khác ở vùng bụng, và não bị tổn thương. Chưa bao giờ xác định được nguyên nhân gây ra thể trạng yếu đuối của Pascal, dù có những suy đoán như bệnh lao, ung thư dạ dày, hoặc có thể là kết hợp giữa hai bệnh.
Di sản
Để tôn vinh những đóng góp khoa học của ông, tên của Pascal được đặt cho một ngôn ngữ lập trình, cũng như Định luật Pascal là một nguyên tắc quan trọng trong thủy tĩnh học. Ngoài ra, còn có Tam giác Pascal, và Triết lý đặt cược của Pascal.
Phát triển lý thuyết toán xác suất là đóng góp có nhiều ảnh hưởng nhất của Pascal cho toán học. Khởi thủy chỉ để ứng dụng cho đánh bạc, ngày nay nó trở nên cực kỳ quan trọng cho toán học, nhất là khoa học thống kê. John Ross viết, "Lý thuyết thống kê và những phát hiện sau đó đã thay đổi cách chúng ta xem xét sự bất ổn định, rủi ro, tiến trình ra quyết định, cũng như khả năng của cá nhân và xã hội nhằm tạo ảnh hưởng đến những diễn biến trong tương lai." Cũng cần biết rằng Pascal và Fermat, dù có những đóng góp ban đầu quan trọng cho lý thuyết xác suất, đã dừng lại tại đây. Christian Huygens, học biết về lý thuyết qua việc trao đổi thư tín với Pascal và Fermat, đã viết cuốn sách đầu tiên về chủ đề này. Những nhân vật khác như Abraham de Moivre và Pierre-Simon Laplace đã tiếp tục phát triển nó.
Đóng góp của Blaise Pascal trong lĩnh vực máy tính đã được công nhận bởi nhà khoa học máy tính Nicklaus Wirth, người vào năm 1972 đã đặt tên cho ngôn ngữ máy tính mới của mình là Pascal (và nhấn mạnh rằng nó được đánh vần là Pascal, không phải PASCAL). Pascal (Pa) là một đơn vị đo áp suất khí quyển được đặt tên để vinh danh Blaise Pascal, người đã có những thí nghiệm nâng cao kiến thức về khí quyển. Pascal là lực của một newton tác dụng lên một bề mặt có diện tích một mét vuông. Nó là đơn vị áp suất do Hệ thống quốc tế chỉ định. 100.000 Pa = 1000 mb hoặc 1 bar.
Trong lĩnh vực văn học, Pascal được xem là một trong những tác gia quan trọng nhất của thời kỳ cổ điển Pháp, cho đến ngày nay người ta vẫn tìm đọc các tác phẩm của ông, và xem ông như là một trong những bậc thầy về văn xuôi Pháp. Văn phong trào phúng và dí dỏm của ông đã có ảnh hưởng đến những cây bút chính luận.
Tại Pháp, giải thưởng danh giá, Blaise Pascal Chairs, được trao cho những nhà khoa học quốc tế kiệt xuất để tổ chức nghiên cứu trong vùng Ile de France. Một trong những viện đại học của Clermont-Ferrand ở Pháp – Université Blaise Pascal – được đặt theo tên của ông. Đại học Waterloo, Ontario, Canada, tổ chức cuộc tranh tài toán học hằng năm mang tên Pascal.
Phim tiểu sử Blaise Pascal do Roberto Rosellini làm đạo diễn được phát sóng trên truyền hình Ý trong năm 1971. Pascal cũng được chọn làm chủ đề cho phiên bản đầu tiên cuốn phim tài liệu của BBC, Sea of Faith.
Câu nói nổi tiếng
- Nếu mũi của Cleopatra ngắn hơn một chút thì khuôn mặt của cả trái đất này hẳn đã thay đổi.
- Ái tình và hạnh phúc là hình với bóng, nếu biết bảo vệ thì hạnh phúc sẽ thành sự thật, ngược lại nếu không biết bảo vệ thì hạnh phúc chỉ là một hình ảnh ảo tưởng không bao giờ có.
- Con người chỉ là cây sậy, thực thể yếu đuối nhất trong thiên nhiên, nhưng là cây sậy biết suy nghĩ.
- Tư tưởng tạo nên sự vĩ đại của con người.
- Tình trạng của con người: hay thay đổi, buồn chán, lo âu.
- Con người không phải là thiên thần hay ác quỷ, nhưng điều bất hạnh là họ đóng vai thiên thần mà hành động như ác quỷ.
- Công lý không có sức mạnh thì bất lực; sức mạnh không có công lý là bạo tàn.
- Tại sao chúng ta theo phe đa số? Bởi vì họ sáng suốt hơn? Không phải, bởi vì họ có nhiều quyền lực hơn.
- Ít có tình bạn nào còn kéo dài nếu người ta biết bạn hữu nói gì sau lưng mình.
- Bạn có muốn người ta nghĩ tốt về mình? Vậy thì, đừng nói tốt về mình.
- Đam mê không thể nào làm hại chúng ta, hãy hành động như thể chúng ta chỉ có tám giờ đồng hồ để sống.
- Sự sống là điều duy nhất ngăn cách chúng ta với thiên đàng hoặc địa ngục, mà đó là điều mong manh nhất trên thế gian này.
- Trái tim có lý lẽ của nó mà Lý trí không biết được. Từ đó chúng ta cảm nhận vô số điều. Chính là từ trái tim, không phải bởi Lý trí, chúng ta cảm nhận được Thiên Chúa. Và đó là đức tin trọn vẹn: Thiên Chúa được cảm nhận từ trái tim.
- Trong đức tin có đủ ánh sáng cho những ai muốn tin, và có đủ bóng tối để làm mờ mắt những ai không muốn tin.
- Có hai hạng người đáng được xem là sáng suốt: những người tận tâm phụng sự Chúa bởi vì họ biết Ngài, và những người hết lòng tìm kiếm Chúa bởi vì họ chưa biết Ngài.
- Thiên Chúa của người tín hữu Cơ Đốc là Thiên Chúa của tình yêu và sự an ủi, là Thiên Chúa làm đầy trọn linh hồn và tấm lòng của những ai thuộc về Ngài, khiến họ thấu hiểu những tranh chấp nội tâm của chính mình, và hiểu lòng thương xót vô hạn của Ngài, là đấng hiện hữu tại nơi sâu thẳm nhất của linh hồn họ, khiến nó viên mãn với đức khiêm nhu và niềm vui thỏa, với lòng tin cậy và tình yêu thương, đến nỗi họ không còn mục đích nào khác hơn là sống cho Ngài.
- Hiểu biết về Thiên Chúa mà không biết gì về tình trạng khốn cùng của con người sẽ sinh ra kiêu ngạo. Hiểu biết về tình trạng khốn cùng của con người mà không biết gì về Thiên Chúa dẫn đến tuyệt vọng. Hiểu biết về Chúa Giesu mở ra con đường trung dung, bởi vì trong Ngài chúng ta tìm thấy Thiên Chúa và nhận ra tình trạng khốn cùng của mình.
- Mọi thứ luôn tuyệt khi đó là lúc bắt đầu.
- Chúng ta nên biết giới hạn của mình. Chúng ta có thể là một thứ gì đó. Nhưng không ai trong chúng ta là tất cả.
Xem thêm