Descartes - Người khai sinh ra triết học hiện đại

09/01/2022 | 1632

René Descartes (15961650) là triết gianhà khoa họcnhà toán học người Pháp, được một số người xem là cha đẻ của triết học hiện đại. Ông sinh ngày 31 tháng 3 năm 1596 La Haye-en-Touraine, ngày nay là vùng Descartes. Ông được rửa tội ngày 3 tháng 4 năm 1596, mất ngày 11 tháng 2 năm 1650 tại StockholmThuỵ Điển. Descartes thường được gọi là cha đẻ của triết học hiện đại, và được xem là đã làm gia tăng sự quan tâm đến tri thức luận vào thế kỉ 17.

THINKERS AT WAR - Descartes | Military History Matters

Tiểu sử

Sinh tại La HayeTouraine (trước đây là một tỉnh, nay gọi là một vùng của Pháp), Descartes là con của một gia đình quý tộc nhỏ, có truyền thống khoa bảng và là tín hữu Công giáo Rôma. Lên tám tuổi, ông được gửi theo học tại trường học của dòng Tên tại La Flèche ở Anjou, ông học ở đây suốt 8 năm. Bên cạnh những môn học cổ điển, Descartes còn học toán ở các thầy theo trường phái Kinh viện, một học phái chủ trương dùng lý luận của loài người để hiểu lý thuyết Kitô giáoThiên Chúa giáo La Mã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến suốt cuộc đời Descartes.

Sau khi ra trường, ông theo học luật tại Đại học Poitiers, tốt nghiệp năm 1616. Tuy vậy, ông chưa hề hành nghề luật; năm 1618 ông phục vụ cho Hoàng tử Maurice de Nassau, nhà lãnh đạo của Liên hiệp các tỉnh Hà Lan, với ý định theo đuổi một cuộc đời binh nghiệp, trong thời gian này ông học ngành kỹ thuật quân sự. Những năm tiếp theo, Descartes phục vụ các quân đội khác, nhưng ông đã bắt đầu tập trung vào toán học và triết học. Ông hành hương sang đất Ý từ năm 1623 đến 1624, sau đó từ 1624 đến 1628, ông ở Pháp. Trong thời gian ở Pháp, Descartes chuyên tâm nghiên cứu triết học và làm các thí nghiệm về quang học. Ông cũng dành thời gian ở Paris, nơi ông liên lạc với Marin Mersenne, một liên hệ quan trọng giúp ông liên quan đến thế giới khoa học trong nhiều năm. Ngôi nhà của ông ở Paris trở thành nơi gặp gỡ của các nhà triết học và toán học. 

Cùng với Isaac Beeckman, một triết gia có ảnh hưởng sâu sắc đến ông, ông đã làm việc trong phần rơi tự do, dây xích, hình nón và tĩnh của chất lỏng, phát triển niềm tin rằng cần phải tạo ra một phương pháp liên quan triệt để đến toán học và vật lý.

Năm 1628, mệt mỏi với sự nhộn nhịp của Paris, ngôi nhà đầy người và cuộc sống của một du khách, ông quyết định định cư nơi ông có thể làm việc trong cô độc. Ông ấy đã suy nghĩ rất nhiều về việc chọn một đất nước phù hợp với bản chất của mình và chọn Hà Lan.

Sau khi bán hết tài sản ở Pháp, ông chuyển sang sống ở Hà Lan, và sống hầu hết quãng đời còn lại ở đây. Descartes sống ở nhiều thành phố khác nhau của Hà Lan, như AmsterdamDeventerUtrecht, và Leiden.

Ông đã ao ước được ở một nơi yên tĩnh, nơi ông có thể làm việc tránh xa những phiền nhiễu của một thành phố như Paris, nhưng vẫn có quyền truy cập vào các cơ sở của một thành phố. Đó là một quyết định tốt mà dường như không hối tiếc.

Ngay sau khi định cư ở Hà Lan, ông bắt đầu thực hiện chuyên luận lớn đầu tiên về vật lý, Le Monde hoặc Traité de la Lumière. Ông viết cho Mersenne vào tháng 10 năm 1629:

[Các nguyên tắc cơ bản của vật lý] là chủ đề mà tôi đã nghiên cứu nhiều hơn bất kỳ vấn đề nào khác và trong đó, cảm ơn Chúa, tôi đã không hoàn toàn mất thời gian của mình. Ít nhất tôi nghĩ rằng tôi đã tìm ra cách chứng minh các sự thật siêu hình theo cách rõ ràng hơn so với các bài kiểm tra hình học, theo ý kiến ​​của tôi, đó là nói: Tôi không biết liệu tôi có thể thuyết phục người khác về nó không. Trong chín tháng đầu tiên của tôi ở đất nước này, tôi đã không làm việc gì khác.

Năm 1633, công việc này gần như đã kết thúc khi tin tức về việc Galileo bị kết án quản thúc tại gia đã đến với ông. Ông quyết định không mạo hiểm xuất bản tác phẩm và cuối cùng đã chọn chỉ làm một phần, sau khi ông qua đời.

Descartes đã bị áp lực bởi bạn bè của mình để xuất bản ý tưởng của mình và mặc dù anh ấy không linh hoạt khi không xuất bản Le Monde, đã viết một chuyên luận về khoa học dưới tiêu đề Discours de la méthode pour bien conduire sa raison et chercher la vérité dans les sc khoa (Bài phát biểu của Phương pháp).

Ba phụ lục của tác phẩm này là La Dioptrique, Les Météores và La Géométrie. Chuyên luận đã được xuất bản ở Leiden năm 1637 và Descartes đã viết cho Mersenne rằng:

Công việc Bài phát biểu của Phương pháp (1637) nó mô tả những gì Descartes coi là một phương tiện thu nhận kiến ​​thức thỏa đáng hơn so với logic của Aristotle. Chỉ có toán học, theo Descartes, là đúng, vì vậy mọi thứ phải dựa trên toán học.

Trong ba bài tiểu luận đi kèm với bài diễn văn, ông đã minh họa phương pháp của mình để sử dụng lý trí trong việc tìm kiếm sự thật trong các ngành khoa học.

Năm 1649, nữ hoàng Christina nước Thụy Điển mời Descartes đến giảng dạy cho bà về triết học tại triều đình ở Stockholm. Sau khi đến đây, cuộc sống và công việc không diễn tiến thuận lợi như ý làm ông thấy buồn và muốn trở về nơi tĩnh lặng xưa, cùng với cái lạnh khắc nghiệt của xứ Bắc Âu đã làm ông mắc bệnh viêm phổi dẫn đến qua đời năm 1650.

Triết học

Descartes muốn áp dụng phương pháp diễn dịch toán học vào triết học. Trước đó, triết học bị chi phối bởi phương pháp của phái Kinh viện, vốn hoàn toàn dựa theo sự so sánh và đối chiếu với quan điểm của nhà cầm quyền. Bác bỏ phương pháp này, Descartes cho rằng "Trong khi tìm kiếm con đường thẳng đi đến chân lý, chúng ta không cần phải quan tâm tới những gì mà chúng ta không thể thấu đáo một cách chắc chắn như việc chứng minh bằng đại số và hình học". Qua đó ông chỉ ra rằng "không điều gì được xem là đúng cho đến khi nền tảng để tin rằng nó đúng được thiết lập". Sự chắc chắn duy nhất làm điểm xuất phát cho các nghiên cứu của ông được ông bày tỏ bằng câu nói nổi tiếng "Cogito, ergo sum", (tiếng Latinh, "Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại").

Rene Descartes by Portanell Painting by Jose Armet Portanell

Từ tiên đề cho rằng ý thức rõ ràng về tư duy của ông chứng minh rằng ông tồn tại, Descartes kết luận là Chúa tồn tại. Chúa, theo triết học Descartes, đã tạo ra hai loại chất để tạo nên toàn bộ vạn vật. Loại thứ nhất là chất suy nghĩ, tức tinh thần, loại thứ hai là các chất mở rộng, tức thân thể.

Trong tiếng Pháp, tính từ cartésien (hoặc cartésienne - dạng giống cái) dùng để chỉ những nhân cách có xu hướng tư duy logic hơn là cả tin. Cartésien có từ nguyên là tên của Descartes. Tiếng Anh cũng có tính từ cartesian với ý nghĩa tương đương.

Descartes được coi là nhà tư tưởng đầu tiên của hiện đại, cho rằng, nhờ vào quan niệm của ông, chủ nghĩa duy lý như một học thuyết đã bước những bước đầu tiên.

Trong bối cảnh Descartes sống, đề xuất một triết lý mới tương ứng với một hành động cách mạng và khá táo bạo, kể từ khi đề xuất đề xuất của ông ngụ ý nghi ngờ triết học thời trung cổ.

Đối với Descartes, chủ nghĩa hiện thực mà triết học hiện tại dựa trên là hơi ngây thơ, vì ông coi những gì ông cho là có thật.

Descartes giải thích rằng, khi có được kiến ​​thức về một cái gì đó, chúng ta thực sự hiểu ý tưởng của mình về kiến ​​thức đó, và để biết sau đó nếu kiến ​​thức này là có thật, cần phải phân tích nó và tìm sự chắc chắn tuyệt đối.

Giáo dục cho tất cả mọi người

Một phần trong quan niệm về giáo dục của Descartes dựa trên thực tế là tất cả mọi người đều có quyền giáo dục và tiếp cận kiến ​​thức. Trong thực tế, ông cho rằng không có trí tuệ lớn hơn hoặc kém hơn, nhưng cách tiếp cận kiến ​​thức khác nhau.

Khái niệm kiến ​​thức được kế thừa không tương thích với lập luận của Descartes, người cho rằng những gì là đúng là tất cả những gì rất rõ ràng đối với lý do và rằng một kiến ​​thức khác được truyền đạt bởi một nhân vật có thẩm quyền không nhất thiết là đúng..

Cũng trong bối cảnh đó, anh cho thấy mình là người bảo vệ quyền mà con người phải tự suy nghĩ và có tự do trong học tập.

Phương pháp hướng dẫn lý do

Descartes nghĩ rằng cần phải có kiến ​​thức thông qua một phương pháp cụ thể, điều này sẽ giúp có được sự thật thuần khiết nhất có thể. Các bước của phương pháp này như sau:

-Bằng chứng, trong đó đề cập đến các yếu tố chính xác đến mức không có cách nào để nghi ngờ những điều này.

-Phân tích, liên quan đến việc chia nhỏ từng khái niệm thành các phần nhỏ hơn nhiều, để chúng có thể được nghiên cứu và đánh giá cẩn thận và sâu sắc..

-Tổng hợp, điểm mà nó được tìm cách cấu trúc kiến ​​thức trong câu hỏi bắt đầu bởi các yếu tố ít phức tạp hơn.

-Bảng liệt kê, bao gồm xem xét lại công việc được thực hiện nhiều lần, càng nhiều lần càng tốt, để chắc chắn rằng bạn không quên bất kỳ yếu tố nào.

Các cơ sở của phương pháp này được tìm thấy trong toán học, do đó tương ứng với sự xuất sắc của mẫu có liên quan đến bất kỳ lý do nào có tính chất khoa học.

Phương pháp dựa trên sự nghi ngờ

Descartes đã tìm cách tiếp cận sự thật tuyệt đối của thế giới và mọi thứ thông qua một phương pháp dựa trên sự nghi ngờ. Quy trình này phản hồi để xem xét sai tất cả các yếu tố hoặc đối số có ít nhất một điều gì đó đáng nghi ngờ trong cấu trúc của chúng.

Nghi ngờ này không nên được coi là sự phản ánh của chủ nghĩa hoài nghi, cho rằng đó là một câu hỏi có tính chất phương pháp, luôn luôn có ý định tiếp cận càng nhiều càng tốt sự thật.

Theo Descartes, nếu sự chắc chắn về kiến ​​thức không tuyệt đối thì sự nghi ngờ xuất hiện và kiến ​​thức này trở thành sai, bởi vì chỉ có kiến ​​thức thực sự là không có bất kỳ nghi ngờ nào.

Khoa học

Triết học Descartes, có khi được gọi là Cartesianism (tiếng Anh), đã khiến cho ông có nhiều giải thích sai lầm về các hiện tượng vật lý. Tuy nhiên, các giải thích đó cũng có một giá trị nhất định, vì ông đã dùng những giải thích cơ học thay cho những quan điểm tinh thần mơ hồ của các tác giả đi trước. Ban đầu Descartes đã công nhận thuyết Copernic về hệ thống vũ trụ trong đó các hành tinh xoay quanh Mặt Trời, nhưng ông đã từ bỏ nó chỉ vì giáo hội Thiên Chúa La Mã phán rằng thuyết đó tà đạo. Thay vào đó ông đưa ra lý thuyết dòng xoáy – cho rằng vũ trụ được lấp đầy vật chất, ở các trạng thái khác nhau, xoáy quanh mặt trời.

Trong lĩnh vực sinh lý học, Descartes giữ quan điểm rằng máu là một chất lỏng tinh tế mà ông gọi là hồn của động vật. Ông tin rằng hồn động vật tiếp xúc với chất suy nghĩ ở trong não và chảy dọc theo các dây thần kinh để điều khiển cơ bắp và các phần khác của cơ thể.

Về quang học, Descartes đã khám phá ra định luật cơ bản của sự phản xạ: góc tới bằng góc phản xạ. Tiểu luận của ông là văn bản đầu tiên trình bày đề cập đến định luật này. Việc Descartes xem ánh sáng như một thứ áp lực trên môi trường chất rắn đã dẫn đường cho lý thuyết sóng của ánh sáng.

René Descartes - người làm 'mềm mại' hình học bằng hệ trục tọa độ - Toán  Học Việt Nam

Toán học

Đóng góp quan trọng nhất của Descartes với toán học là việc hệ thống hóa hình học giải tích, hệ các trục tọa độ vuông góc được mang tên ông. Ông là nhà toán học đầu tiên phân loại các đường cong dựa theo tính chất của các phương trình tạo nên chúng. Ông cũng có những đóng góp vào lý thuyết về các đẳng thức. Điều này dựa trên việc sử dụng các dấu hiệu mà ông đã tạo ra để xác định bản chất của các gốc của phương trình đã cho. Descartes cũng là người đầu tiên dùng các chữ cái cuối cùng của bảng chữ cái để chỉ các ẩn số và dùng các chữ cái đầu tiên của bảng chữ cái để chỉ các giá trị đã biết. Ông cũng đã sáng tạo ra hệ thống ký hiệu để mô tả lũy thừa của các số (chẳng hạn trong biểu thức ). Mặt khác, chính ông đã thiết lập ra phương pháp, gọi là phương pháp dấu hiệu Descartes, để tìm số nghiệm âm, dương của bất cứ phương trình đại số nào.

Thiền siêu hình

Cuốn sách này có tiêu đề Thiền siêu hình trong đó sự tồn tại của Thiên Chúa và sự bất tử của linh hồn được thể hiện, và nó đã được xuất bản năm 1641, viết bằng tiếng Latin.

Tác phẩm này tương ứng với không gian mà Descartes đã phát triển với tính đặc thù cao hơn những gì được nêu trong phần thứ tư của cuốn sách Phát biểu của phương pháp.

Một số khái niệm mà nó thiết lập trong công việc này có liên quan đến việc loại bỏ tất cả các nghi ngờ ở gốc, để không làm quen với chúng. Nó cũng nhấn mạnh việc công nhận sự tồn tại của chính nó là đúng, nhờ vào nguyên tắc đầu tiên của nó "Tôi nghĩ, do đó tôi là".

Ông cũng tập trung công việc này vào việc nhận ra sự tồn tại của Thiên Chúa là một thực thể hoàn hảo và sự vượt trội mà lý trí phải có trên ý chí, thường là lỗi tiếp cận khi đầy những phán xét cá nhân..

Đóng góp với các lý thuyết vật lý

Ông đã cố gắng giải thích các hiện tượng khác nhau trong mặt phẳng vật lý, thậm chí tiếp cận ý tưởng của Copernicus - đối với hệ thống nhật tâm, mặc dù sau đó ông đã bác bỏ những cách tiếp cận này, chủ yếu vì chúng được Giáo hội Công giáo coi là dị giáo.

Tương tự như vậy, mặc dù nhiều nỗ lực giải thích của anh ta không chính xác nhất, anh ta đã cắt đường cho những gì sau này trở thành một trong những đóng góp quan trọng nhất của anh ta: phương pháp khoa học.

Một số cuốn sách đã xuất bản:

Essais philosophiques (Các tiểu luận triết học), xuất bản năm 1637, đây là tác phẩm rất lớn của ông có ý nghĩa tạo nền tảng cho triết học hiện đại. Tác phẩm gồm bốn phần: một tiểu luận về hình học, một về quang học, phần thứ ba về sao băng và phần thứ 4 là về Phương pháp luận (Discours de la méthode), trong đó ông trình bày các nghiên cứu triết học của mình.

Sau đó lần lượt ra đời các tác phẩm khác, có thể kể ra Meditationes de Prima Philosophia (Suy ngẫm về Triết học Tiên khởi, năm 1641, viết lại năm 1642) và Principia Philosophiae (Các nguyên lý triết học, năm 1644). Cuốn sau này ông dành tặng cho Công chúa Elisabeth xứ Bohemia, một người bạn thân thiết của ông ở Hà Lan. 

Phát biểu của phương pháp

Tên đầy đủ của cuốn sách này là Thảo luận về phương pháp để thực hiện tốt lý trí của một người và tìm kiếm sự thật trong khoa học, dịch từ tiếng Pháp Discours de la méthode pour bien conduire sa raison, et chercher la vérité dans les sc khoa.

Đây là tác phẩm quan trọng nhất của Descartes và là một trong những văn bản đầu tiên của triết học hiện đại, trong đó ông miêu tả các khía cạnh tự truyện và các yếu tố khác dẫn ông đến phương pháp triết học đặt ra.

Ấn phẩm đầu tiên của ông là ẩn danh và xảy ra vào năm 1637. Ý định đầu tiên của Descartes là cuốn sách này là một phần mở đầu cho ba bài tiểu luận được viết bởi ông, có tiêu đề DióptricaHình học và Thiên thạch.

Thế giới đối xử với ánh sáng

Cuốn sách này có tiêu đề bằng tiếng Pháp Traité du monde et de la lumière và được viết từ năm 1629 đến 1633. Descartes đặt ra các vấn đề đa dạng như sinh học, vật lý, vũ trụ học, siêu hình học, và thậm chí triết học cơ học, một khái niệm có hiệu lực trong thế kỷ XVII.

Cơ sở chung của cuốn sách nằm trong lý thuyết do Copernicus tuyên bố, theo đó các hành tinh - Trái đất bao gồm - xoay quanh Mặt trời, không giống như những gì mà lý thuyết địa tâm đề xuất, theo đó đó là Trái đất nằm ở trung tâm của vũ trụ.

Vì Tòa án dị giáo lên án Galileo vì dị giáo, Descartes quyết định chưa xuất bản cuốn sách này, vì sợ rằng ông cũng sẽ bị buộc tội. Toàn văn được xuất bản vào năm 1677.

Mời các bạn tìm hiểu thêm nhiều thông tin chi tiết về Descartes qua video sau:

Thắm Lê tổng hợp theo Wikipedia & Thpanorama


(*) Xem thêm

Bình luận