Chuyển đổi số là động lực phục hồi và phát triển kinh tế Việt Nam

13/01/2022 | 442

Chuyển đổi số, ứng dụng các nền tảng công nghệ số Make in Vietnam sẽ là yếu tố quan trọng, tạo động lực phục hồi và phát triển kinh tế Việt Nam. Các doanh nghiệp công nghệ số đã, đang và sẽ giúp các ngành, lĩnh vực phục hồi và phát triển...

Chuyển đổi số là gì?Chuyển đổi số trong hoạt động của cơ quan nhà nước như thế nào? - VietNamNet

Giới chuyên gia nhận định, chuyển đổi số là xu thế không thể đảo ngược, nếu đứng ngoài, doanh nghiệp sớm muộn sẽ thất bại.

Có nhiều định nghĩa và cách hiểu về chuyển đổi số. Theo Gartner, chuyển đổi số là việc sử dụng các công nghệ số để thay đổi mô hình kinh doanh, tạo ra những cơ hội, doanh thu và giá trị mới. Microsoft cho rằng chuyển đổi số là việc tư duy lại cách thức các tổ chức tập hợp mọi người, dữ liệu và quy trình để tạo những giá trị mới.

Còn theo quan điểm của FPT, chuyển đổi số trong tổ chức, doanh nghiệp là quá trình thay đổi từ mô hình truyền thống sang doanh nghiệp số bằng cách áp dụng công nghệ mới như dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud)... thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình làm việc, văn hóa công ty. Chuyển đổi số mang lại nhiều lợi ích như cắt giảm chi phí vận hành, tiếp cận được nhiều khách hàng hơn trong thời gian dài hơn, lãnh đạo ra quyết định nhanh chóng và chính xác hơn nhờ hệ thống báo cáo thông suốt kịp thời. Qua đó, hiệu quả hoạt động và tính cạnh tranh của tổ chức, doanh nghiệp được nâng cao.

Vậy chuyển đổi số khác gì số hóa?

Trong hội thảo Chuyển đổi số - Cơ hội và thách thức diễn ra hồi tháng 11/2018 tại Hà Nội, ông Nguyễn Thành Phúc, Cục trưởng Cục tin học hoá - Bộ Thông tin và Truyền thông, giải thích "số hóa" là việc biến đổi các giá trị thực sang dạng số, còn "chuyển đổi số" là khi có dữ liệu được số hoá rồi, chúng ta phải sử dụng các công nghệ như AI, Big Data... để phân tích dữ liệu, biến đổi nó và tạo ra một giá trị khác.

Có thể lấy ví dụ Grab trong việc xây dựng ứng dụng gọi xe. Những gì người dùng thấy trên màn hình điện thoại đơn giản là một chu trình đặt xe và hoàn thành chuyến đi của khách và tài xế, nhưng ẩn sâu là cả một hệ thống phức tạp. Công ty phải phân tích khối lượng dữ liệu lớn liên quan tới thói quen lái xe của tài xế, nhu cầu của người dùng, tính năng tạo sẵn cung đường, điều hướng thời gian thực... Từ dịch vụ đặt xe, công ty đã mở rộng thêm nhiều sản phẩm khác như giao hàng, mua đồ ăn...

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng: “Năm 2021 đã đẩy toàn đất nước vào chuyển đổi số”

Và năm 2022 sẽ là năm thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số ở mọi ngành trên phạm vi toàn quốc, toàn dân và toàn diện, là năm đầu thực hiện các chiến lược mới về hạ tầng số, dữ liệu, công nghiệp công nghệ số, doanh nghiệp công nghệ số, chuyển đổi số báo chí...

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng

Chiều ngày 22/12, Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức Hội nghị tổng kết công tác năm 2021 và triển khai nhiệm vụ năm 2022 của tổ chức chiều 22/12 với sự tham dự của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam.

DOANH THU NGÀNH THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG TĂNG TRƯỞNG 9%

Theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông, các chỉ số xếp hạng trong nhiều lĩnh vực thuộc ngành Thông tin và Truyền thông  đều được các tổ chức quốc tế đánh giá cao. Đặc biệt, năm 2021, doanh thu ngành thông tin và truyền thông đạt 3.462.170 tỷ đồng, cơ bản hoàn thành 100% kế hoạch đặt ra, tăng trưởng 9% so với năm 2020, mức tăng trưởng gấp từ 3,6-4,5 lần so với mức dự báo tăng trưởng 2%-2,5% GDP của quốc gia.

Trong đó, chiếm tỉ trọng đóng góp lớn nhất cho doanh thu toàn ngành là từ công nghiệp ICT, với doanh thu năm nay ước đạt hơn 136 tỉ USD, tăng hơn 11,4 tỉ USD so với năm 2020. Trong số này, đóng góp chính là doanh nghiệp FDI với hơn 117 tỉ USD.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng: “Năm 2021 đã đẩy toàn đất nước vào chuyển đổi số” - Ảnh 1

Cũng trong năm 2021 ghi dấu ấn bởi số lượng doanh nghiệp ICT tăng trưởng mạnh mẽ. Theo đó, Việt Nam hiện có 64.000 doanh nghiệp công nghệ số, tăng thêm 5.600 doanh nghiệp so với năm 2020.

Mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng chính những thách thức do dịch bệnh gây ra đã thúc đẩy quá trình chuyển đổi số mạnh mẽ hơn. Chỉ trong thời gian ngắn, công cuộc chuyển đổi số quốc gia đã được lan tỏa sâu rộng trên phạm vi toàn quốc với tốc độ nhanh chóng, tạo nên một làn sóng chuyển đổi số trên khắp các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trên cả nước.

Công tác truyền thông, báo chí đã phản ánh trung thực dòng chảy chính của xã hội Việt Nam, tuyên truyền cách làm đúng, phổ biến, nhân rộng những điển hình tiên tiến; đúc kết những bài học kinh nghiệm để phổ biến rộng rãi, tạo đồng thuận, lan toả năng lượng tích cực, tạo niềm tin xã hội, góp phần tạo ra sức mạnh tinh thần để Việt Nam bứt phá vươn lên...

Chính trong quá trình chuyển đổi số này, các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam đã khẳng định vai trò tiên phong trong nghiên cứu, phát triển và đổi mới sáng tạo, làm chủ công nghệ, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển nền kinh tế số.

Định hướng đến năm 2025, bộ đặt mục tiêu ngành công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử viễn thông có sứ mệnh mới là dịch chuyển từ gia công, lắp ráp sang "Make in Viet Nam", tức làm sản phẩm tại Việt Nam, làm chủ và sáng tạo công nghệ. Trong đó, tỉ trọng "Make in Viet Nam" vào năm 2025 đạt trên 45%.

Thời điểm đó, cả nước sẽ có 100.000 doanh nghiệp công nghệ số. Hình thành ít nhất 10 doanh nghiệp công nghệ số đóng vai trò dẫn dắt, có năng lực cạnh tranh quốc tế, doanh thu trên 1 tỉ USD. Cả nước có ít nhất 10 địa phương đạt doanh thu công nghiệp công nghệ thông tin trên một tỉ USD.

Công tác truyền thông, báo chí đã phản ánh trung thực dòng chảy chính của xã hội Việt Nam, tuyên truyền cách làm đúng, phổ biến, nhân rộng những điển hình tiên tiến, những tấm gương người tốt, việc tốt, những việc làm tử tế, đúc kết, khái quát những bài học kinh nghiệm để phổ biến rộng rãi, tạo đồng thuận, lan toả năng lượng tích cực, tạo niềm tin xã hội, góp phần tạo ra sức mạnh tinh thần để Việt Nam bứt phá vươn lên...

CHUYỂN ĐỔI SỐ LÀ ĐỘNG LỰC CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Nhắc lại sứ mệnh kế thừa và phát huy truyền thống của ngành bưu điện trước đây, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng ngành Thông tin và Truyền thông không chỉ tiên phong mở đường mà còn phải đồng hành, thúc đẩy các ngành, địa phương phát triển.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu chỉ đạo tại hội nghị.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu chỉ đạo tại hội nghị.

Phó Thủ tướng nhấn mạnh trong công cuộc chống dịch, phát triển kinh tế xã hội năm qua, báo chí truyền thông đã đồng hành với Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương để cùng nhau động viên người dân, doanh nghiệp thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.

Trong chống dịch Covid-19, chúng ta đã huy động được toàn dân tham gia. Kể cả trong những thời khắc khó khăn nhất thì niềm tin và sự đồng hành của người dân Việt Nam với các chủ trương của Đảng và Nhà nước trong chống dịch có tỷ lệ cao nhất thế giới. Phó Thủ tướng nêu ví dụ và cho rằng công tác báo chí, truyền thông có đóng góp rất quan trọng.

Nêu rõ công tác chuyển đổi số đã đi vào mọi ngóc ngách của cuộc sống, Phó Thủ tướng cho rằng Bộ Thông tin và Truyền thông không chỉ đồng hành mà còn cần hỗ trợ, thúc đẩy chuyển đổi số của các bộ, ngành, địa phương.

Theo Phó Thủ tướng, Bộ Thông tin và Truyền thông đã cơ bản xây dựng được các chiến lược, đề án. Các địa phương cơ bản xác định được những công việc cần phải làm. Bộ Thông tin và Truyền thông cần thúc đẩy chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin của các địa phương bằng cách làm mẫu, đi trước và hỗ trợ.

Từ kinh nghiệm ứng phó với dịch Covid-19, Bộ Thông tin và Truyền thông cần tiếp tục lập nhiều nhóm làm việc, nhóm công tác với sự tham gia của các đơn vị trong Bộ, doanh nghiệp, chuyên gia, để giải bài toán chuyển đổi số cụ thể cho từng xã, huyện, tỉnh.

Phó Thủ tướng cho rằng, năm 2022 cần phải có những chuyển biến mạnh hơn về xây dựng cơ sở dữ liệu. Với ba cơ sở dữ liệu lớn về dân cư, doanh nghiệp, đất đai, cùng với thanh toán điện tử thì chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số, chính phủ số sẽ có những bước tiến thực chất.

Trước những diễn biến khó lường của dịch Covid-19, ngành thông tin và truyền thông cần tiếp tục hoàn thiện các giải pháp công nghệ phục vụ chống dịch trên tinh thần chủ động đón đầu, thay đổi các nền tảng để đáp ứng tình hình mới… Bên cạnh đó, ngành Thông tin và Truyền thông, doanh nghiệp công nghệ thông tin cần tiếp tục phát triển các nền tảng thúc đẩy chuyển đổi số như thương mại điện tử, học trực tuyến,... với sự ủng hộ của các ngành, địa phương và người dân.

Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, năm 2021 đối với ngành Thông tin và truyền thông là một năm rất đặc biệt. Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định chuyển đổi số là động lực của phát triển kinh tế. Khát vọng phát triển, khát vọng Việt Nam hùng cường, thịnh vượng và hạnh phúc sẽ tạo ra sức mạnh tinh thần để Việt Nam bứt phá, vươn lên thành nước phát triển có thu nhập cao. Đôi cánh để Việt Nam bay lên là công nghệ và khát vọng phát triển. Đôi cánh này đều liên quan tới ngành thông tin và truyền thông.

Covid-19 là cú hích trăm năm cho chuyển đổi số. Năm 2021 đã đẩy toàn đất nước vào chuyển đổi số.

Năm 2022 sẽ là năm thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số ở mọi ngành trên phạm vi toàn quốc, toàn dân và toàn diện, là năm đầu thực hiện các chiến lược mới: hạ tầng số, dữ liệu, bưu chính, an toàn thông tin mạng, công nghiệp công nghệ số, doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam, chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, chuyển đổi số báo chí, Bộ trưởng thông tin.

Để thúc đẩy chuyển đổi số cần phải đồng bộ thể chế số, hạ tầng số, công cụ sản xuất số, công cụ quản lý số, nhân lực số, thị trường số, và quản lý pháp luật số nhằm có một môi trường số lành mạnh, quản lý được các nguy cơ và rủi ro trên không gian mạng.

Giải pháp chuyển số giúp các ngành lĩnh vực phục hồi phát triển bền vững sau đại dịch

Bàn giải pháp chuyển đổi số đột phá giúp các ngành, lĩnh vực phục hồi phát triển sau đại dịch

Thông điệp này đã được các chuyên gia, doanh nghiệp nhấn mạnh tại Diễn đàn Quốc gia phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam (Diễn đàn Make in Vietnam) phiên sáng ngày 11/12/2021.

CHUYỂN ĐỔI SỐ THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN CHO CÁC NGÀNH, LĨNH VỰC

Chia sẻ về công nghệ số trong quản lý và phát triển lĩnh vực năng lượng, ông Võ Quang Lâm, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam, cho biết đến nay, có 29,5 triệu hợp đồng mua, bán điện đã được số hóa. Với 19 triệu công tơ điện tử, Việt Nam đạt tỷ lệ cao về công tơ điện tử trong khu vực ASEAN. Từ năm 2012, EVN đã thực hiện cung cấp hóa đơn điện tử, đến nay, đã áp dụng toàn bộ trên hệ thống. EVN cũng đẩy mạnh kết nối với các ngân hàng, đơn vị thanh toán nhằm phục vụ thanh toán ví điện tử, không tiền mặt...

EVN cũng đã thực hiện việc cung cấp hóa đơn điện tử. 99,6% hợp đồng mua bán điện hiện đã được ký bằng hợp đồng điện tử. Tập đoàn Điện tử Việt Nam cũng đã triển khai 12/12 dịch vụ của ngành điện lên Cổng Dịch vụ công Quốc gia. Các dịch vụ của ngành điện cũng chiếm tới 55% dịch vụ được giao dịch trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia.

Trong thời gian tới, EVN sẽ thúc đẩy việc thanh toán tiền điện không sử dụng tiền mặt (hiện đạt khoảng 80%). Tập đoàn Điện lực Việt Nam cũng đang tính toán việc áp dụng công nghệ Blockchain và AI vào hoạt động sản xuất, kinh doanh điện.

Đối với ngành Du lịch, ông Nguyễn Lê Phúc, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch cho biết, du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển song hành cùng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với các công nghệ như Blockchain, trí tuệ nhân tạo. Tuy nhiên, trong bối cảnh dịch Covid-19, du lịch bị ảnh hưởng rất nặng nề. Theo tính toán, ngành du lịch trên toàn thế giới đã chịu tổng thiệt hại đến 2,4 nghìn tỷ USD.

Trước tình hình đó, du lịch Việt Nam cũng được khuyến khích tiếp tục triển khai đề án chuyển đổi số. Trước khi Covid-19 bùng phát, ngành đã xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu như hệ thống khách sạn 3-5 sao, hướng dẫn viên du lịch nội địa, quốc tế, lữ hành...

Thứ hai là nền tảng kết nối liên thông các cơ quan quản lý địa phương và doanh nghiệp; cơ quan nhà nước nhận thông tin, báo cáo thông qua các đơn vị cơ sở.

Thứ ba là thiết lập ứng dụng công nghệ số hỗ trợ khách du lịch. Và cuối cùng là hỗ trợ đổi mới sáng tạo.

Đến nay, nhiều địa phương đã đưa điểm đến của mình lên các nền tảng số như Hà Nội có hệ thống du lịch Văn Miếu Quốc Tử Giám, Đà Nẵng có ứng dụng Da Nang Toursism, Huế có chương trình tham quan Hoàng Thành thực tế ảo... Đồng thời các doanh nghiệp đều đã có ứng dụng quản lý, bán hàng trên môi trường số như Vietravel, Flamingo...

CÁC NỀN TẢNG SỐ “MAKE IN VIETNAM” HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP, PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ

Trong quá trình phát triển, chuyển đổi số, các nền tảng số Make in Vietnam được nhấn mạnh như một yếu tố quan trọng cho đảm bảo thông suốt hoạt động của các tổ chức, doanh nghiệp. Theo thống kê năm 2020, cả nước có hơn 800.000 doanh nghiêp. Đại dịch trong hai năm qua tác động đến doanh nghiệp, người lao động. Thống kê có đến 45.611 doanh nghiệp ngừng hoạt động, 28,2 triệu người lao động mất việc, giảm thu nhập.

Ông Hà Trung Kiên, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Công nghệ G-Group cho rằng, chuyển đổi số giúp doanh nghiệp tối ưu hoạt động sản xuất kinh doanh, sản xuất. Hiện các doanh nghiệp lớn đã và trong quá trình chuyển đổi số. Thực tế, có sự dịch chuyển từ nền tảng số nước ngoài sang Make in Việt Nam, ông nói.

Các sản phẩm Make in Việt Nam có sự linh động, có đội ngũ hỗ trợ, sẵn sàng đồng hành cùng doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sản phẩm có chi phí thấp hơn. Nền tảng nước ngoài khó khăn trong việc hỗ trợ khách hàng tại Việt Nam: rào cản ngôn ngữ, văn hóa, thời gian...

Khối doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế số. Hiện, các doanh nghiệp nhận thức được tầm quan trọng của chuyển đổi số nhưng gặp khó khăn về chi phí, thiếu cơ sở hạ tầng và nhân lực công nghệ thông tin...

Ngoài ra, hiện nay, đa phần các doanh nghiệp đều dùng các công cụ giao tiếp phổ biến như Facebook... Điều này khiến thông tin doanh nghiệp dễ bị rò rỉ, nhân viên sao nhãng, hiệu suất làm việc giảm. Thực tế, các doanh nghiệp nhận thấy điều đó nên cập nhật các nền tảng nước ngoài như Workplace. Câu chuyện này cũng giống như G-Group, mỗi công ty sử dụng một nền tảng giao tiếp khác nhau.

Đại diện doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME), ông Hoàng Minh Quân, CEO Cloudify Việt Nam cho biết, kinh tế số Việt Nam có tốc độ tăng trưởng rõ rệt, ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực nhờ sự đầu tư, chương trình khuyến khích của Nhà nước. Trong báo cáo kinh tế số châu Á 2021 của Google, từ nay đến năm 2030, Việt Nam có sự phát triển nhanh nhất khu vực. Cụ thể, đến năm 2030, nền kinh tế số sẽ mở rộng hơn hiện tại gấp 11 lần. Sự tăng trưởng này sẽ diễn ra đồng đều ở tất cả các ngành như thương mại điện tử, logistic thông minh, du lịch... Đặc biệt, từ 2020-2021, thương mại điện tử đã tăng trưởng 30%.

Trong đó, ông Quân khẳng định khối doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế số. Hiện, các doanh nghiệp này nhận thức được tầm quan trọng của chuyển đổi số nhưng gặp khó khăn về chi phí, thiếu cơ sở hạ tầng và nhân lực công nghệ thông tin. Do đó, Cloutify đưa ra mô hình phần mềm như một dịch vụ (SAAS). 

Ông Quân cho biết, đến nay, đơn vị này đã chuyển đổi số cho 2.000 doanh nghiệp, dự kiến con số này sẽ tăng lên 10.000 và 10.000 đến năm 2025. Điều này sẽ góp phần thúc đẩy tốc độ kinh tế số toàn quốc. Các doanh nghiệp SME cũng có nền tảng công nghệ, quản lý tốt hơn, phát triển nhanh hơn.

Hiện tại, có nhiều doanh nghiệp lớn trong nước đang dùng nền tảng số nước ngoài, trong khi theo ông Kiên, các nền tảng trong nước có thể đáp ứng nhu cầu của họ. Do đó, các doanh nghiệp số cần làm thế nào để tập đoàn trong nước hiểu và tin dùng sản phẩm "Make in Vietnam". Về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Huy Dũng đặt ra vấn đề các nền tảng số của Việt Nam nên giải quyết vấn đề đặc thù Việt Nam. Mỗi công nghệ cần phù hợp với nhiều đối tượng cả về nền tảng và chi phí...

Chốt lại chủ đề phiên sáng 11/12, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh: "Công nghệ mới xuất hiện là tạo ra cơ hội cho sự thay đổi. Nó tạo ra cơ hội cho chúng ta xử lý những bài toán tồn tại lâu dài của loài người. Sau đó, mới xuất hiện câu chuyện chúng ta có muốn, có dám không, có thể chế hoá để cho cái đấy hợp pháp không".

Cho nên, theo Bộ trưởng Hùng, mối quan hệ giữa công nghệ và thể chế phải là như vậy. Mình nói tắt là cái chuyển đổi số không chỉ là vấn đề công nghệ. Có lúc nói chuyển đổi số nhiều hơn là về vấn đề thể chế là vì công nghệ đã xuất hiện rồi. Còn nếu công nghệ chưa xuất hiện, chúng ta cũng không có cơ hội để chuyển đổi số.

3 rào cản doanh nghiệp đối mặt khi chuyển đổi số

Báo cáo thường niên chuyển đổi số doanh nghiệp “Rào cản và nhu cầu chuyển đổi số” do USAID LinkSME và Bộ Kế hoạch và Đầu tư khảo sát hơn 1.300 doanh nghiệp về động lực và khó khăn trong chuyển đổi số đã chỉ ra 3 rào cản, khó khăn của doanh nghiệp khi thực hiện chuyển đổi số…

 

Dịch Covid-19 diễn ra từ đầu năm 2020 đã khiến các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng nặng nề. Trong bối cảnh đó, nhu cầu chuyển đổi số trở nên cấp thiết khi các doanh nghiệp buộc phải đổi mới mô hình, chuyển dần các hoạt động kinh doanh trên các nền tảng số, tìm kiếm thêm thị trường, cắt giảm chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động, khả năng cạnh tranh nhằm thích ứng với bối cảnh mới.

NHU CẦU CHUYỂN ĐỔI SỐ GIA TĂNG

Theo kết quả khảo sát, đối với các doanh nghiệp mới bắt đầu chuyển đổi số, 57% doanh nghiệp tìm kiếm các giải pháp Tiếp thị trực tuyến, 53,7% doanh nghiệp có nhu cầu về các giải pháp về Làm việc nội bộ. Tiếp đến là các giải pháp Giao dịch điện từ (43%) và Hạ tầng mạng, dữ liệu (39,6%).

3 rào cản doanh nghiệp đối mặt khi chuyển đổi số - Ảnh 1
 

Đối với các doanh nghiệp đang tăng trưởng và có nhu cầu chuyển đổi số để tăng tốc, nhu cầu lớn nhất của các doanh nghiệp trong giai đoạn này là giải pháp về Phân tích dữ liệu, báo cáo thông minh (BI, Big Data, Data warehouse) với 63,5% tổng số doanh nghiệp tham gia khảo sát lựa chọn. 60,7% tổng số doanh nghiệp khảo sát có nhu cầu về giải pháp về Quản lý hệ thống khách hàng (CRM) và quản lý kênh bán hàng (Omni Channel Sales).

3 rào cản doanh nghiệp đối mặt khi chuyển đổi số - Ảnh 2
 

Hai giải pháp còn lại bao gồm Hệ thống hoạch định tài nguyên doanh nhiệp (ERP) và An toàn dữ liệu (Database & Security) có nhu cầu tương đương nhau với lần lượt 57,8% và 50,2% số doanh nghiệp tham gia khảo sát lựa chọn.

3 rào cản doanh nghiệp đối mặt khi chuyển đổi số - Ảnh 3
 

Đối với các doanh nghiệp muốn chuyển đổi số để thúc đẩy xuất khẩu, có tới 43,9% doanh nghiệp có nhu cầu hỗ trợ từ các sàn thương mại điện tử xuyên biên giới như hướng dẫn việc khởi tạo và duy trì tài khoản, xây dựng mô hình kinh doanh, tiếp thị, vận chuyển khi tham gia các sàn thương mại điện tử; 42,3% có nhu cầu hỗ trợ về các giải pháp vận chuyển, kho bãi, logistics xuyên biên giới và 35,5% doanh nghiệp tìm kiếm các giải pháp thanh toán xuyên biên giới.

VẪN CÒN NHIỀU RÀO CẢN

Mặc dù nhu cầu chuyển đổi số của doanh nghiệp là rất lớn song kết quả khảo sát cho thấy, có đến 60,1% doanh nghiệp tham gia khảo sát cho biết rào cản mà họ gặp phải khi áp dụng công nghệ số là bởi chi phí đầu tư, ứng dụng công nghệ còn cao.

“Điều này một phần cũng do tác động bởi đại dịch Covid-19 khiến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn về giảm doanh thu, thiếu hụt nguồn vốn nói chung, trong đó ảnh hưởng đến chi phí đầu tư, triển khai, duy trì các giải pháp cho chuyển đổi số cho chuyển đổi số”, báo cáo nhận định.

Ngoài ra, khó khăn trong thay đổi thói quen, tập quán kinh doanh được coi là rào cản lớn thứ hai khiến doanh nghiệp găp khó khăn, chiếm tỷ lệ 52,3% số doanh nghiệp khảo sát.

Qua phản ánh của các doanh nghiệp, việc chuyển đối số sẽ thay đổi thói quen và cách làm việc của người lao động. Một số doanh nghiệp đã ứng dụng phần mềm nhưng nhân viên, người lao động không ứng dụng, hoặc chỉ ứng dụng một phần, khiến mục tiêu chuyển đổi số của doanh nghiệp không đạt được mục tiêu đề ra.

Phân tích sâu hơn theo quy mô doanh nghiệp, các chuyên gia của USAID LinkSME và Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng nhận thấy các doanh nghiệp có quy mô khác nhau sẽ gặp những rào cản ở mức độ khác nhau.

Nhưng nhìn chung, các doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ, có tiềm lực tài chính hạn chế nên gặp khó khăn nhiều nhất về chi phí đầu tư, ứng dụng công nghệ.

Trong khi đó, các doanh nghiệp quy mô vừa và lớn có tiềm lực tài chính tốt hơn thì gặp rào cản nhiều nhất về thay đổi thói quen, tập quán kinh doanh.

“Điều này một phần do các doanh nghiệp quy mô vừa và lớn có bộ máy, quy trình phức tạp hơn các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, vì thế sẽ khó khăn hơn khi thích ứng với thay đổi”, báo cáo nhận định.

Báo cáo thường niên chuyển đổi số doanh nghiệp 2021: “Rào cản và nhu cầu chuyển đổi số” được xây dựng trong khuôn khổ Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, phối hợp với Dự án USAID LinkSME triển khai thực hiện.

Báo cáo thường niên chuyển đổi số doanh nghiệp 2021 là ấn phẩm đầu tiên nhằm cung cấp những thông tin hữu ích cho cộng đồng, đặc biệt là các địa phương, tổ chức hiệp hội về những khó khăn, thách thức, cũng như nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp khi thực hiện chuyển đổi số, từ đó thiết kế, triển khai các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số trong thời gian tới một cách hiệu quả, thiết thực

Năng lực lãnh đạo số quyết định thành bại chuyển đổi số

Theo thống kê của Hội Các nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam, đến thời điểm này có đến 90% doanh nghiệp chuyển đổi số không thành công. Do vậy, bài toán đặt ra hiện nay là làm thế nào để doanh nghiệp chuyển đổi số thành công, đâu là vấn đề cốt lõi của chuyển đổi số trong doanh nghiệp?...

Các nhà lãnh đạo cần nuôi dưỡng sự cam kết thực hiện chuyển đổi số.

Các nhà lãnh đạo cần nuôi dưỡng sự cam kết thực hiện chuyển đổi số.

Chia sẻ tại diễn đàn “Tiếp cận mới về chuyển đổi số doanh nghiệp: Hiểu đúng, để làm trúng”, ông Nguyễn Đức Trung, Phó Cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cho rằng doanh nghiệp hiện vẫn gặp nhiều khó khăn khi chuyển đổi số.

Trong đó, chi phí triển khai chuyển đổi số là thách thức lớn nhất, không chỉ bao gồm chi phí thuê, mua phần mềm, giải pháp mà còn phát sinh thêm
các chi phí như: chi phí thay đổi quy trình, đào tạo nhân sự để thích ứng với quy trình mới; chi phí đầu tư cho hạ tầng công nghệ thông tin, chi phí trong bảo đảm an toàn, an ninh mạng.

CẦN ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC HẤP THỤ CỦA DOANH NGHIỆP

TS. Lương Minh Huân, Viện trưởng Viện Phát triển doanh nghiệp, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cũng đồng tình với kết quả khảo sát của VCCI rằng chuyển đổi số trong doanh nghiệp còn có nhiều rào cản.

Cụ thể như: chi phí ứng dụng công nghệ số cao; thiếu cơ sở hạ tầng; sợ rò rỉ dữ liệu cá nhân, doanh nghiệp; khó khăn trong thay đổi tập quán kinh doanh; khó khăn trong việc tích hợp các công cụ công nghệ thông tin; các quy tắc, quy định không phù hợp với số hoá; thiếu cam kết, hiểu biết của người lao động...

Ông Nguyễn Đức Hải, Giám đốc Công ty LitCommerce, cho rằng rào cản lớn nhất của chuyển đổi số là văn hóa, chứ không phải là công nghệ vì công nghệ hiện tại đã tương đối đầy đủ để các doanh nghiệp có thể áp dụng trong lĩnh vực chuyển đổi số.

Để chuyển đổi số hiệu quả, theo PGS.TS. Nguyễn Mạnh Quân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển doanh nghiệp, cần đánh giá năng lực hấp thụ của doanh nghiệp để thiết kế lộ trình chuyển đổi số phù hợp.

Không phải mua sắm một vài thiết bị công nghệ để sử dụng thì được xem như là đã chuyển đổi số, mà yêu cầu đặt ra với doanh nghiệp là thay đổi phương thức quản lý, phương thức tổ chức của những người quản lý, lãnh đạo doanh nghiệp.

Hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi thành công cần căn cứ trên cơ sở khảo sát, điều tra, nghiên cứu, từ đó mới có cơ sở thiết kế chương trình đào tạo, tập huấn, xây dựng cho doanh nghiệp lộ trình chuyển đổi số thành công. Trong đó, thu thập thông tin liên quan đến sự sẵn sàng cho việc chuyển đổi số và thực trạng năng lực của doanh nghiệp.

Theo ông Quân, khảo sát đánh giá này là cơ sở để xây dựng nội dung các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp trong việc nâng cao năng suất, chất lượng nói chung và việc chuyển đổi số, sản xuất thông minh, như thiết kế nội dung chương trình đào tạo, tập huấn kiến thức về chuyển đổi sang kinh tế số...

Đồng thời, xây dựng lộ trình chuyển đổi sang kinh tế số và sản xuất thông minh của doanh nghiệp; Xây dựng các đề án tư vấn cho doanh nghiệp về chuyển đổi sang kinh tế số và sản xuất thông minh.

Hơn nữa, trong bối cảnh môi trường kinh doanh có nhiều thay đổi lớn, tiềm ẩn thách thức và cơ hội nên để tạo đột biến, các doanh nghiệp Việt cần nắm bắt, nhaỵ bén, khai thác được tiềm năng sẵn có.

Theo ông Nguyễn Đức Thuận, Phó Chủ tịch Hội Các nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam, các giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số gắn với quản trị doanh nghiệp trong ba trụ cột chính là tài chính, nguồn nhân lực và maketting.

Từ góc nhìn cá nhân, ông Thuận đã đưa ra sáu giải pháp giúp hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số thành công. Đó là xây dựng hệ thống tài liệu để hướng dẫn các doanh nghiệp; hình thành hệ thống tổ chức điều phối mạng lưới để doanh nghiệp xây dựng chuyển đổi số; hỗ trợ, đào tạo lại nhân lực khi tham gia chuyển đổi số; khi tiến hành chuyển đổi số, doanh nghiệp cần có hệ thống chuyên gia để tư vấn; hỗ trợ, dùng các phương pháp công nghệ, công cụ công nghệ gắn với chuyển đổi số.

Cuối cùng, khi tiến hành chuyển đổi số, hệ thống chuyên gia, doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước phải luôn luôn tạo sự hỗ trợ lẫn nhau, thúc đẩy các giải pháp chuyển đổi số với năng lực doanh nghiệp, đánh giá xem mình đặt mức độ nào theo tiêu chí đề ra. Đây là giải pháp vô cùng quan trọng với doanh nghiệp chuyển đổi số.

THAY ĐỔI TƯ DUY, NHẬN THỨC

Theo ông Nguyễn Trọng Đường, Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý doanh nghiệp (Bộ
Thông tin và Truyền thông), nhấn mạnh: chuyển đổi số là quá trình không thể đảo ngược, đặc biệt là trong bối cảnh dịch Covid-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ.

Chính vì vậy, các doanh nghiệp cần chủ động nắm bắt cơ hội chuyển đổi số thành công để không tụt hậu, lệ thuộc. Song để làm được điều này, ông Đường cho rằng các doanh nghiệp cần chú trọng sự thay đổi trong quy trình, nhận thức, thói quen chứ không chỉ riêng vấn đề công nghệ.

Bộ Thông tin và Truyền thông đã xây dựng bộ chỉ số chuyển đổi doanh nghiệp trong năm 2021 với ba chỉ số thành phần, bao gồm: chỉ số chuyển đổi số cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs), chỉ số cho doanh nghiệp lớn và chỉ số cho các tập đoàn, tổng công ty.

“Thông qua bộ chỉ số, các doanh nghiệp sẽ có bộ công cụ đánh giá mức độ chuyển đổi số, xác định được đang ở giai đoạn nào, khâu nào mạnh - yếu, đưa ra lộ trình, kế hoạch chuyển đổi số phù hợp. Đồng thời, hỗ trợ cơ quan quản lý nhà nước đánh giá, xếp hạng doanh nghiệp, đưa ra các khuyến nghị về chuyển đổi số cho doanh nghiệp”, ông Đường cho biết.

Bên cạnh đó, ông Đường cũng chỉ ra rằng để chuyển đổi số toàn diện, các doanh nghiệp cần thay đổi tư duy nhận thức, đồng thời tích cực tham gia nhiều chương trình hỗ trợ chuyển đổi số, cũng như định kỳ đánh giá, xác định đúng mức độ chuyển đổi số của doanh nghiệp để cập nhật kế hoạch và lộ trình trong giai đoạn tới.

Ông Đường nhấn mạnh: để các doanh nghiệp Việt Nam chuyển đổi số thành công, tất cả các đơn vị bộ phận thuộc doanh nghiệp phải vào cuộc, thống nhất mục tiêu và hoạt động đồng bộ. 

Chuyển đổi số là tiến về phía trước. Nếu tất cả đều đi về một hướng thì thành công tự sẽ đến", ông Nguyễn Trọng Đường, Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý doanh nghiệp (Bộ Thông tin và Truyền thông) khẳng định.

Cùng quan điểm, ông Nguyễn Tuấn Dương, Phó Trưởng ban Chiến lược sản phẩm, Công ty Công nghệ thông tin VNPT nhận định, trụ cột chính xuyên suốt quá trình chuyển đổi số là năng lực lãnh đạo số.

Theo đại diện VNPT, lãnh đạo số đóng vai trò quan trọng khi cần nắm rõ kết quả doanh nghiệp muốn đạt được trong quá trình chuyển đổi số.

Để đáp ứng điều kiện chuyển đổi số, lãnh đạo phải đáp ứng các điều kiện về năng lực chuyển đổi số và cam kết chuyển đổi số. Trong đó, để doanh nghiệp chuyển đổi số có hiệu quả, không lãng phí thời gian, chi phí, lãnh đạo doanh nghiệp cần có suy nghĩ rõ ràng về kết quả mà doanh nghiệp muốn đạt được.

Đồng thời, cần dựa trên tình hình thực tế của công ty để xác định đích đến của chuyển đổi số là ở đâu. Do vậy, "các nhà lãnh đạo cần có suy xét cẩn thận, xem xem đâu mới là vấn đề cốt lõi của doanh nghiệp và mức độ sẵn sàng về nguồn lực thực hiện chuyển đổi số của doanh nghiệp mình", ông Dương nhấn mạnh.

Mặt khác, các nhà lãnh đạo cần nuôi dưỡng sự cam kết thực hiện chuyển đổi số trong toàn bộ doanh nghiệp như việc thành lập các nhóm chiến lược trong chuyển đổi số. Văn hóa doanh nghiệp là yếu tố có tác động nhiều đến kết quả và hiệu quả chuyển đổi số.

Chính vì vậy, việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp lành mạnh sẽ tác động đến thành công của chuyển đổi số.

Ông Hoàng Nam Tiến, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Viễn thông FPT (FPT Telecom).

Ông Hoàng Nam Tiến, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Viễn thông FPT (FPT Telecom) cho rằng: Một trong những yếu tố quan trọng nhất đối với một giải pháp, nền tảng công nghệ khi ra đời là phải được thị trường và người dùng chấp nhận. Ông Hoàng Nam Tiến cho rằng, thế mạnh lớn nhất của các giải pháp ứng dụng "Make in Vietnam" chính là khả năng đưa ra được lời giải các bài toán đang đặt ra cho thị trường và doanh nghiệp.
 

Anh Nhi - Nhĩ Anh - Vũ Khuê (vneconomy.vn)

 


(*) Xem thêm

Bình luận