Song tu phước - huệ để sớm đạt được những thành tựu tốt đẹp
Tu tập nghĩa là áp dụng chánh pháp vào trong cuộc sống hằng ngày. Có 2 loại tu là tu phước và tu huệ mà người phật tử cần thực hành thường xuyên để sớm thoát khỏi bờ mê, thân tâm ngày càng an lạc, tiến gần hơn đến bờ giác...
Định nghĩa
Tu phước là từ ngữ chỉ các việc làm phước, các hành động phước thiện. Chẳng hạn như là: bố thí cúng dường, đi chùa lạy Phật, hùn phước in kinh, đúc chuông tạo tượng, tụng kinh hộ niệm, an ủi người già, thăm nhà người bệnh, nói chung là những việc làm cứu người giúp đời.
Tu phước tạo nên phước báu. Phước báo có công năng (giá trị) giảm thiểu nghiệp báo. Nghiệp báo là quả báo do những nghiệp nhân bao gồm hành động bất lương, lời nói ác độc, ý nghĩ bất thiện, đã tạo trước đây. Nghiệp báo gồm có những tai họa, hoạn nạn, gian nan, trắc trở, khốn khổ, khốn nạn, xui xẻo, bệnh hoạn.
Người có nhiều phước báo sẽ được giàu sang, quyền quí, vinh hiển, đẹp đẽ, thông minh, lanh lợi, may mắn, đỗ đạt, thành tài, buôn may bán đắt, con cái ngoan hiền, hiếu thảo, gia đạo bình an, êm ấm, gia đình hạnh phúc, vui vẻ, muốn gì được nấy, cầu gì được nấy, nhiều người thương mến, cuộc sống hòa bình, an nhàn, sung sướng. Người có phước báo, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, tai qua nạn khỏi. Như vậy mục đích của việc tu phước là để dừng nghiệp và chuyển nghiệp.
Tuy nhiên nếu kiếp nào được hưởng phước báo như trên, con người thường lo hưởng thụ, sung sướng quá, quên mất việc tu tâm dưỡng tánh, lại tạo thêm nghiệp báo khác, do có quyền lực và nhiều tiền bạc, nhưng thiếu đạo đức. Khi hưởng hết phước báo, con người sẽ phải đền trả nghiệp báo, cứ lẩn quẩn trong vòng sanh tử luân hồi.
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
"Con người khi đang hưởng phước báo, cũng như mũi tên bắn lên không trung. Mũi tên bay lên rất nhanh, rất mạnh, cũng như con người gặp mọi sự may mắn, tốt đẹp, như ý. Đến khi phước báo hết, con người bắt đầu đền trả nghiệp báo, cũng như mũi tên hết trớn thì rơi xuống đất cũng nhanh như vậy". Đó chính là phước hữu lậu (còn trong vòng sanh tử luân hồi) đó vậy.
Bởi vậy cho nên, Đức Phật dạy chúng ta khi tu phước, làm tất cả những việc phước thiện, nhưng đừng mong cầu hưởng phước báo, mà nên phát nguyện: "được phước duyên, đời đời gặp Chánh Pháp, gặp thầy lành bạn tốt, giúp đỡ tu tập, hướng dẫn pháp môn, cho đến ngày giác ngộ và giải thoát". Đó chính là tu huệ.
Tu huệ là tu tập theo các pháp môn Đức Phật dạy trong kinh sách, tùy theo khả năng, căn cơ, trình độ, hoàn cảnh, sở thích của mỗi cá nhân, để phát triển trí tuệ bát nhã. Khác với trí tuệ thế gian phục vụ con người về phương diện vật chất và tinh thần, trí tuệ bát nhã giúp chúng ta giác ngộ được chân lý, giải thoát khỏi những phiền não khổ đau, sống đời an lạc hạnh phúc, cư trần lạc đạo.
Người phát tâm tu huệ thường tìm thầy lành bạn tốt, học hỏi giáo lý, chọn lựa pháp môn thích hợp để thực hành, tu tâm dưỡng tánh, chuyển hóa ba nghiệp thân khẩu ý lăng xăn lộn xộn, thành ba nghiệp thanh tịnh. Không thể nói rằng tu mà không cần học hiểu giáo lý. Tại sao như vậy? Bởi vì, kinh sách ghi lại những lời Đức Phật thuyết pháp, những lời chư Tổ sư giảng dạy, để làm gì? Người phát tâm tu hành phải học giáo lý để thấy được chánh đạo, tránh lọt vào tà đạo, nếu không chỉ là những người tu mù mà thôi. Những người đã tu mù mà còn hướng dẫn nhiều người khác thì tai họa không nhỏ!
Người phát triển được trí tuệ bát nhã sẽ thấu hiểu tại sao phải tu phước, tại sao phải làm phước, tu phước làm phước bao nhiêu mới gọi là đủ? Chẳng hạn như là: hiểu được tại sao phải ăn chay, người tu tránh được tâm cống cao ngã mạn, lòng kiêu ngạo thấy người khác chưa làm được như mình, tránh được tâm nổi sân khi thấy người khác không làm giống như mình. Nhờ đó, người tu sớm hàng phục được tâm mình và sống trong cảnh giới an lành vì tâm được an. Đó chính là phước vô lậu (thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi) đó vậy.
Giản biệt giữa tu phước và tu huệ
Tu phước và tu huệ khác nhau trên ý niệm và trên kết quả. Thế nào khác nhau trên ý niệm? Như chúng ta thấy một người nghèo khổ, động lòng từ bi, chúng ta tìm cách giúp đỡ cho họ. Từ đó, chúng ta bố thí cho họ tiền bạc, của cải v.v… để cho họ được no cơm ấm áo. Đó là chúng ta khởi niệm tu phước.
Còn khởi niệm tu huệ là sao? Khi chúng ta khởi nghĩ đi đến chùa để học hỏi nghe giáo lý Phật dạy, liền đó chúng ta đi ngay. Và khi đến chùa, chúng ta vào lớp học để nghe quý thầy giảng dạy. Trong khi nghe, chúng ta chăm chú nghe từng lời nói của vị giảng sư rồi chúng ta suy nghĩ thật chính chắn qua từng lời nói, sau đó, chúng ta đem ra ứng dụng thật hành để được lợi lạc cho bản thân ta.
Như vậy, giữa hai ý niệm khác nhau, một đàng là chúng ta khởi niệm muốn giúp đỡ người khác để chúng ta được có phước. Ngược lại, đằng nầy, chúng ta khởi nghĩ học hỏi chánh pháp để trau dồi trí năng của chúng ta, ngày thêm được sáng suốt hơn. Như vậy, rõ ràng có sự khác biệt ở nơi cái nhân của Ý Niệm. Và khi kết quả cũng có khác nhau.
Kết quả của sự bố thí, cúng dường, thì chúng ta hưởng được phước báo giàu sang, an vui. Ngược lại, kết quả của sự trau dồi học hỏi qua 3 phương pháp: “Văn huệ, Tư huệ và Tu huệ”, kết quả, chúng ta sẽ được trí huệ sáng suốt.
Như thế, tu phước, thì xuất phát từ lòng từ bi, vì có thương người, thương vật nên chúng ta mới thi ân giúp đỡ. Còn tu huệ, thì xuất phát từ lý trí, biện biệt được lẽ chánh tà chân ngụy.
Phật tử cần thực hành song tu, nếu chỉ đặt nặng một bên, thì chẳng những không đạt được kết quả tốt đẹp lợi lạc, mà còn gây ra nhiều tai hại nữa. Nếu chỉ có từ bi mà không có trí huệ đi kèm, thì từ bi đó dễ trở thành mù quáng. Ngược lại, chỉ có biết tu huệ không thôi, thì đó là trí huệ khô, chẳng làm lợi lạc cho ai. Vì vậy, người phật tử cần phải tu hết cả hai vậy.
Mối tương quan giữa tu phước & tu huệ
Phật tử thuần thành có trí tuệ cũng biết rằng: trong khi tu phước đã có tu huệ, trong khi tu huệ là có tu phước rồi. Tu phước bổ trợ cho tu huệ làm trí huệ ngày càng sáng thêm. Thông qua những việc làm phước thiện, người phật tử cũng sẽ giác ngộ hoặc hiểu sâu rộng thêm nhiều chân lý của chánh pháp. Ngược lại tu huệ sẽ giúp cho phật tử biết rằng chỉ có tu phước mới tạo được phước, những việc phước thiện được thực hiện một cách đúng đắn, đúng phương pháp, đúng đối tượng thì sẽ được phước báu vô lượng vô biên. Nhờ có tu với trí huệ giúp chúng ta không rơi vào trạng thái 'tu mù'.
Trong thực tế cũng có, những người tu phước, thường hay mong cầu, phước báu trở lại, với bản thân mình, với gia đình mình, qua các dạng như: may mắn, tai qua nạn khỏi, giàu sang hạnh phúc, ăn nên làm ra, cửa nhà êm ấm, con cái thành tài, buôn may bán đắt. Như vậy nghĩa là: mặc dù tu phước, người rất hiền lương, ăn hiền ở lành, việc ác không làm, chỉ làm việc thiện, nhưng mà tâm niệm, của người tu phước, chưa được quảng đại, còn hay vị kỷ, hơn là vị tha, chưa được thanh tịnh. Do đó cho nên, phước báu có được, rất là hạn chế, theo như tâm lượng, hạn hẹp của mình. Khi không như ý, những người tu phước, thường hay nổi giận, bực bội bất an, tâm trạng hoang mang, làm cho nhiều người mất dần tín tâm, bỏ theo ngoại đạo.
Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy:
"Nhược Bồ Tát ư pháp, ưng vô sở trụ, hành ư bố thí. Sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp bố thí. Bồ Tát ưng như thị bố thí, bất trụ ư tướng. Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lượng" .
Nghĩa là: nếu như chúng ta, không chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, và không chấp sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, mà thực hành hạnh bố thí, thì phước đức không thể nghĩ, không thể lường được.
Nếu người tu phước, làm việc phước thiện, mà không vụ lợi, không tâm phân biệt, kỳ thị thân sơ, xuất xứ sang hèn, nam nữ sắc tộc, không mong cầu lộc, hay được báo đáp, không hề trông chờ, đền ơn đáp nghĩa, không hề thấy mình, là người làm phước, không thấy người khác, thọ nhận ơn phước, nếu làm như vậy, tạo được phước báu, vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. Tại sao như vậy? Bởi vì tâm lượng, của người tu phước, ngay lúc bấy giờ, trở nên quảng đại, vô cùng vô tận, cho nên phước báu, trở nên to lớn, vô lượng vô biên, tương ứng rõ ràng. Trong lúc thực hiện, hành động tạo phước, lời nói tạo phước, ý nghĩ tạo phước, không hề nghĩ rằng: mình đang làm phước. Giúp đỡ người khác, chỉ vì tình thương, từ bi bác ái, lòng tốt tự nhiên, tâm bất vụ lợi, vì người quên mình, đó chính thực là: hành động tạo phước, cao thượng hạng nhứt, đem lại "phước báu", vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn.
Chúng ta nên biết: chúng ta có phước, nếu như chúng ta, đầy đủ sức khỏe, lục căn hoàn bị, tay chân lành lặn, đi đứng tự nhiên, mắt mũi tinh tường, trí óc minh mẫn, sống trong hạnh phúc, gia đạo bình an, trên thuận dưới hòa, thuận vợ thuận chồng, con cháu ngoan ngoãn, hiền lành dễ dạy, cuộc sống bình yên, ít gặp sóng gió, ít có trắc trở, tai qua nạn khỏi, mọi việc suôn sẻ, mọi sự hanh thông, gặp được thầy lành, gặp được bạn tốt. Phước báu hơn nữa, nếu như chúng ta, gặp được chánh pháp, ngộ được chánh đạo, giác ngộ giải thoát, không còn trầm luân, sanh tử luân hồi.
Người trí thực hành, hạnh nguyện bố thí, chẳng cầu báo ân, chẳng cầu lợi mình, chẳng vì giúp đỡ, cho kẻ bỏn sẻn, chẳng vì quả báo, sanh cõi nhơn thiên, giàu sang sung sướng, hưởng thụ dục lạc, chẳng vì danh tiếng, đồn đãi khắp nơi, chẳng vì có của, dư dùng không xài, chẳng vì bắt chước, làm theo người khác.
Người trí thực hành, hạnh nguyện bố thí, chỉ vì từ tâm, giúp người cần đến, khiến người an vui, qua cơn khốn khó, bớt cơn phiền não, khiến cho người khác, sanh tâm bố thí, nhứt tâm hồi hướng, công đức phước đức, cho khắp muôn loài, pháp giới chúng sanh. Làm được như vậy, trí tuệ khai mở, tâm niệm hòa bình, chúng sanh an lạc, mọi người hạnh phúc.
Người thích bố thí, chẳng thích tu tuệ, sanh ra giàu có, nhưng tâm trí kém. Người thích tu tuệ, chẳng thích bố thí, sanh ra thông thái, nhưng nghèo xác xơ. Tuy nhiên rõ ràng, trong khi tu phước, nếu chúng ta làm, với tâm chính trực, bất tùy phân biệt, kết quả đồng thời, cũng có nghĩa là: chúng ta tu huệ.
Chẳng hạn như là: chúng ta thực hành, hạnh nguyện bố thí, với tâm đại từ, tâm bất vụ lợi, chúng ta được phước, đồng thời kết quả, tâm tham bỏn sẻn, dần dần giảm bớt, thiểu dục tri túc, biết đủ bớt tham, không còn phạm giới, không còn tạo nghiệp, tâm trí ổn định, dần dần thanh tịnh, trí tuệ phát sanh.
Lợi lạc của việc song tu
Như vậy nghĩa là: thực tâm tu tập, tu phước và tu tuệ, đồng thời có kết quả. Nếu như chúng ta, tu tập tinh tấn, sẽ nhận thấy rằng: trong phước có tuệ, trong tuệ có phước. Phước báu giúp ta, bớt gặp chướng ngại, trên đường tu tập. Trí tuệ giúp ta, tu tiến nhanh thêm, chóng đến bến bờ, giác ngộ giải thoát, lai đáo bỉ ngạn. Tu tập nghĩa là: áp dụng giáo lý, ngay trong cuộc sống, luôn luôn nhớ nghĩ, sửa đổi tâm tánh, của chính bản thân, ngày một an hơn, ngày một vui hơn, cho đến một ngày, giác ngộ giải thoát.
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
"Hãy tự thắp đuốc, tự mình bước đi."
Thắp sáng trí tuệ, ngọn đuốc chánh pháp.
Trí tuệ bát nhã, giúp đỡ chúng ta, thoát khỏi phiền não, giảm thiểu khổ đau, không ngoài giáo pháp, của Đức Thế Tôn. Do đó chúng ta, phát tâm tu tập, nên học giáo lý, mở mang trí tuệ, mới tỏ chánh đạo, mới có chánh kiến, mới đặng chánh tín, tâm được thanh tịnh, tránh được tà đạo, tránh cảnh tu mù, lọt hầm sụp hố, từ bỏ tâm ma, đạt được giác ngộ, thấu rõ chân lý, giải thoát khổ đau, sống trong cảnh giới, niết bàn hiện tại, ngay trong cuộc sống, hằng ngày của mình. Đó mới chính là: "Tu tuệ thực sự".
Ở trong cuộc sống, thế gian hằng ngày, có nhiều cơ hội, có rất nhiều cách, có nhiều phương pháp, để cho con người, làm phước tạo phước, kiếm phước tích phước. Dù đó là phước: hữu lậu vô lậu, đều có công năng, giúp cho con người, có được cuộc sống, bình yên an ổn, ít đau khổ hơn, bớt đi phiền não, để tiến tới chỗ, giải thoát khỏi vòng, sanh tử luân hồi. Phước báu hữu lậu, do những việc làm, tạo sự an vui, thoải mái yên bình, ích lợi cho người, gặp lúc khó khăn, về mặt vật chất, hay về tinh thần.Phước báu hữu lậu, còn có công năng, đem lại may mắn, tai qua nạn khỏi, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, chuyện khó hóa dễ, hễ chịu làm phước, oan trái bớt đi, nghiệp báo giảm thiểu. Người nào làm phước, với lòng ước mong, hưởng phước về sau, đó được gọi là: phước báu hữu lậu, vẫn còn trong vòng, sanh tử luân hồi.
Phước báu vô lậu:
Do những việc làm, lời nói ý nghĩ, ích lợi cho người, nhưng đồng thời cũng, giúp chuyển hóa được, con người chính mình, thí dụ như là: bố thí cúng dường, tụng kinh niệm Phật, tư duy thiền quán, nghiên tầm kinh điển, tu tâm dưỡng tánh. Người nào làm phước, với bốn tâm lớn: từ bi hỷ xả, tứ vô lượng tâm, lòng không cầu mong, hưởng phước về sau, chỉ chuyên cố gắng, tu tập tinh tấn, tiến dần đến chỗ: giác ngộ giải thoát, là phước vô lậu, vượt thoát khỏi vòng, sanh tử luân hồi.
Đức Phật có dạy:
Chúng ta làm phước, đừng có mong cầu, hưởng phước về sau, mà nên phát nguyện: đời đời kiếp kiếp, đầy đủ phước duyên, gặp được chánh pháp, gặp được thầy lành, gặp được bạn tốt, giúp đỡ trợ duyên, tu tâm dưỡng tánh, cho đến cái ngày: giác ngộ giải thoát. Đó chính là nghĩa:phước báu vô lậu.
Phước báu hữu lậu:
Như tiền tiết kiệm, có khả năng giúp, con người giàu sang, sung sướng tấm thân, bình yên may mắn. Hưởng phước báo này, có ngày cũng cạn, cũng dứt cũng hết. Khi đó là lúc, con người sẽ phải, đền trả nghiệp báo, đã tạo trước kia, trong lúc giàu sang, quyền uy thế lực, tạo nhiều nghiệp ác, quên mất việc thiện, tu nhơn tích đức.
Chúng ta từng thấy, các vị quyền uy, ông vua bà chúa, hoàng hậu thái phi, hoàng tử công nương, tổng thống thủ tướng, bộ trưởng toàn quyền, các nhà giàu có, trưởng giả cao sang, danh vang tột đỉnh, thế lực quyền quí, lãnh tụ chính trị, lãnh tụ tôn giáo, khi hưởng hết phần, phước báo hữu lậu, họ phải chịu nhiều, tai nạn khổ ách, tán gia bại sản, thân bại danh liệt, thậm chí có thể, mất mạng thê thảm, không ai thay được, ở nơi hoàng cung, hay trên xa lộ, hoặc dưới biển sâu, hay trên núi tuyết!
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
"Con người khi nào, đang hưởng phước báo, cũng như mũi tên, bắn lên không trung. Mũi tên bay lên, rất nhanh rất mạnh, cũng như con người, gặp được mọi sự, may mắn tốt đẹp. Đến khi phước hết, con người bắt đầu, đền trả nghiệp báo, ví cũng như là, mũi tên hết trớn, thì rơi xuống đất, cũng nhanh như vậy". Đó chính là nghĩa: phước báu hữu lậu.
Tóm lại nên biết, trong khi tu phước, đồng thời tu tuệ, mỗi ngày một tiến, nhứt định không lùi, con người cảm nhận, an lạc hạnh phúc, ở trong tầm tay, ngay trong hiện đời, đi đứng nằm ngồi, sinh hoạt hằng ngày, không tìm đâu xa, không đợi kiếp sau, vãng sanh cực lạc, hoặc lên thiên đàng. Tu tập nghĩa là: áp dụng giáo lý, vào trong cuộc sống, hằng ngày của mình, giữ thân khẩu ý, luôn luôn thanh tịnh. Ngay trong cuộc sống, nếu như chúng ta, sinh hoạt bình thường, đi đứng nằm ngồi, tất cả hành động, lời nói ý nghĩ, đều thể hiện được, tứ vô lượng tâm: từ bi hỷ xả, tâm không phiền não, an nhiên tự tại, an vui tu tập, sống trong chánh niệm: niệm Phật niệm Pháp, niệm Tăng chi tâm, tức là chúng ta, đạt được phước báu, trí tuệ viên mãn.
Tu đúng như vậy, chúng ta đạt tới, niết bàn giải thoát, không còn trầm luân, sanh tử luân hồi. Tam bảo thường trụ, phước tuệ lưỡng toàn.
Kinh sách có câu: "Phước Tuệ lưỡng toàn, thì phương tác Phật". Nghĩa là chúng ta, muốn được làm Phật, an nhiên tự tại, thì phải tu phước, tu tuệ song song, đều đặn như nhau. Ví như con chim, phải đủ hai cánh, mới có thể bay.
Chư Phật là bậc "Phước trí nhị nghiêm", phước báu trí tuệ, thảy đều trang nghiêm, chính nghĩa như vậy.
Chư Tăng thường được, mọi người xưng tán, là bậc "TÔN TÚC", nghĩa là các ngài, là bậc tu hành, đáng tôn đáng kính, bởi vì đầy đủ: phước báu trí tuệ, PHƯỚC TUỆ song tu.
---------
Theo Thầy Thích Phước Thái (phatgiao.org.vn), Cư sĩ Chính Trực (buddhismtoday.com) & nguoiphattu.com
Xem thêm