Aristotle: Bách khoa toàn thư của nên văn minh Hy Lạp
Aristotle, một trong những nhà triết học, nhà khoa học và nhà giáo dục vĩ đại. Cùng với hai tiền bối là Socrates và Plato, Aristotle là một trong ba trụ cột của văn minh Hy Lạp cổ đại, đặt nền móng cho triết học phương Tây. Các thế hệ sau gọi Aristotle là “bác học của những bác học”, là “bách khoa toàn thư”, những đóng góp của ông được trải dài ở hầu hết các ngành khoa học và cả trong đời sống.
Aristotle sinh vào khoảng năm 384 TCN ở Stagira, Hy Lạp. Năm 17 tuổi, ông theo học ở Học viện của Plato. Năm 338 TCN, ông bắt đầu dạy học cho Alexander Đại đế. Năm 335 TCN, Aristotle thành lập trường của riêng mình, Lyceum, ở Athens, nơi ông đã dành phần lớn thời gian còn lại của cuộc đời để học tập, giảng dạy và viết.
Di bút của ông bao gồm nhiều lĩnh vực như vật lý học, siêu hình học, thi văn, kịch nghệ, âm nhạc, luận lý học, tu từ học (rhetoric), ngôn ngữ học, Kinh tế học, chính trị học, đạo đức học, sinh học, và động vật học. Ông được xem là người đặt nền móng cho môn luận lý học, và được mệnh danh là "Cha đẻ của Khoa học chính trị".
Cuộc đời
Stagira – nơi Aristotle sinh ra - là một thị trấn nhỏ nằm ở bờ biển phía bắc của Hy Lạp. Cha ông, Nicomachus, là bác sĩ riêng của nhà vua Macedonia – Amyntas II. Mặc dù cha ông qua đời khi ông còn nhỏ, nhưng Aristotle vẫn rất gắn bó và chịu ảnh hưởng bởi vương quốc Macedonia suốt phần đời còn lại của mình. Ít có thông tin nói về mẹ ông – bà Phaestis – người cũng được cho là cũng qua đời khi Aristotle còn nhỏ.
Sau khi cha qua đời, Proxenus tới từ thành Atarneus kết hôn với chị gái ông, và trở thành người giám hộ cho tới khi ông trưởng thành.
Năm 17 tuổi, Proxenus gửi Aristotle tới Athens để theo đuổi sự nghiệp học hành. Vào thời điểm đó, Athens được coi là trung tâm học thuật của vũ trụ. Ở Athens, Aristotle vào học Học viện của Plato – cơ sở học thuật hàng đầu của Hy Lạp, và trở thành một học trò ưu tú của Plato.
Người ta có thể tưởng tượng rằng thời kỳ sống với Platon là một thời kì lý tưởng trong cuộc đời Aristoteles. Một môn đệ thông minh xuất chúng được ở gần một giáo sư toàn năng. Sự thật thì mối liên quan giữa hai thầy trò không phải luôn luôn tốt đẹp. Platon lớn hơn Aristoteles gần 43 tuổi, chỉ sự cách biệt ấy cũng không làm dễ dàng sự thông cảm. Platon công nhận rằng Aristoteles là một môn đệ thông minh xuất chúng, hiếu học vì Aristoteles là một trong những người đầu tiên trong lịch sử nhân loại biết sưu tầm những tài liệu viết tay thời bấy giờ để lập thành một thư viện. Nhà của Aristoteles được Platon gọi là nhà đọc sách, nhiều người cho đó là một lời khen, nhưng cũng có người cho đó là một lời chê có ý ám chỉ đến tinh thần quá chú trọng vào sách vở của Aristoteles.
Aristotle gắn bó với Plato và ngôi trường suốt 2 thập kỷ. Plato qua đời vào năm 347 TCN. Vì bất đồng với một số lý luận triết học của thầy nên Aristotle không phải là người kế thừa ngôi trường này như nhiều người dự đoán.
Sau khi Plato qua đời, Hermias một người học trò cũ của Aristotle lúc bấy giờ là nhà vua của tiểu quốc Atarneus đã mời ông tới cung điện. Trong chuyến thăm 3 ngày ở Mysia, Aristotle đã gặp gỡ và cưới người vợ đầu là Pythias (chị gái của Hermias). Họ có với nhau một người con gái, được đặt theo tên mẹ là Pythias. Sau này vợ ông qua đời trong cùng năm Aristotle thành lập trường Lyceum.
Không lâu sau, ông có một cuộc tình lãng mạn với một phụ nữ tên là Herpyllis. Theo một số sử gia, Herpyllis có thể là nô lệ của Aristotle, được cung điện Macedonia ban cho ông. Họ cho rằng, cuối cùng ông cũng trả tự do và cưới bà. Bà là người đã sinh cho ông những đứa con, trong đó có một người con trai tên là Nicomachus – đươc đặt theo tên của cha ông. Người ta cho rằng Aristotle đã đặt tên tác phẩm triết học nổi tiếng của ông Nicomachean Ethics theo tên người con trai này.
Khi Alexander Đại Đế qua đời vào năm 323 TCN, chính quyền ủng hộ Macedonia bị lật đổ, và theo quan điểm chống Macedonia, Aristotle bị buộc tội bất kính vì quan hệ của ông với người học trò cũ và cung điện Macedonia. Để tránh bị hành quyết, ông đã rời Athens và chạy trốn tới Chalcis – nơi ông qua đời một năm sau đó.
Giảng dạy
Năm 338 TCN, Aristotle tới Macedonia để bắt đầu dạy cho con trai của Vua Phillip II lúc đó 13 tuổi và sau này trở thành Alexander Đại Đế. Cả vua Phillip và Alexander đều rất tôn trọng Aristotle và luôn đảm bảo rằng cung điện Macedonia đền đáp một cách hào phóng cho công việc của ông.
Năm 335 TCN, sau khi Alexander kế vị cha mình và chinh phục thành Athens, Aristotle trở về thành phố. Ở Athens, ngôi trường của Plato - lúc này đang được điều hành bởi Xenocrates – vẫn có những ảnh hưởng đối với tư tưởng của Hy Lạp.
Với sự cho phép của Alexander, Aristotle bắt đầu thành lập ngôi trường của riêng mình ở Athens, có tên là Lyceum. Rất nhiều môn đồ đến xin thụ giáo đến nỗi cần phải đặt ra những phép tắc luật lệ để giữ gìn trật tự. Những môn đồ này tự bầu cử một uỷ ban để cai quản các công việc của trường. Họ thường ở lại và ăn uống ngay trong trường, các buổi học thường được tổ chức ngoài đồng trống.
Aristotle nổi tiếng với thói quen đi dạo quanh sân trường trong khi dạy học, vì thế các học trò buộc phải đi theo ông. Họ còn được gọi với cái tên là “Peripatetics”, có nghĩa là “những người đi rong”.
Các môn đệ của Lyceum nghiên cứu các lĩnh vực từ khoa học tới toán, triết học, chính trị, gần như tất cả mọi thứ. Nghệ thuật cũng là mối quan tâm của họ. Họ viết ra những phát hiện của mình trên các bản thảo. Bằng cách đó, họ đã xây dựng được một bộ sưu tập khổng lồ các tài liệu của trường – vốn được coi là một trong những thư viện lớn đầu tiên của thế giới.
Aristotle đã dành hầu hết phần còn lại cuộc đời mình cho công việc giảng dạy, nghiên cứu và viết cho tới khi học trò của ông – Alexander Đại Đế qua đời.
Khoa học
Mặc dù Aristotle không phải là một nhà khoa học theo định nghĩa của ngày nay, nhưng khoa học là một trong số những lĩnh vực mà ông nghiên cứu trong thời gian dài ở Lyceum. Aristotle tin rằng kiến thức có thể đạt được thông qua việc tương tác với các vật thể vật chất.
Aristotle cũng nghiên cứu về sinh học, trong đó ông cố gắng phân loại các loài động vật thành các chi dựa trên những đặc tính tương đồng của chúng, mặc dù sự phân loại của ông có một số sai sót.
Ông cũng phân loại động vật thành các loài dựa trên điểm khác biệt là những động vật có máu đỏ và những loài còn lại. Những động vật có máu đỏ chủ yếu là động vật có xương sống, còn các loài không có máu đỏ là những loài động vật thân mềm. Mặc dù giả thuyết của ông chỉ có độ chính xác tương đối, song sự phân loại của Aristotle được coi là hệ thống chuẩn trong hàng trăm năm.
Sinh học biển cũng là một lĩnh vực hấp dẫn Aristotle. Qua giải phẫu, ông đã nghiên cứu kỹ lưỡng các sinh vật biển.
Khác với phân loại sinh học, những quan sát của ông về sinh vật biển, được thể hiện trong những cuốn sách của ông, thì chính xác hơn nhiều.
Lyceum của Aristoteles chuyên nghiên cứu về sinh lý học và động vật học. Alexandros ra lệnh cho các nhà săn bắn và chài lưới phải đem nộp cho Aristoteles tất cả những giống vật mới lạ. Tục truyền có cả thảy một đội quân 1.000 người rải rác khắp Hy Lạp và châu Á để sưu tầm những giống vật mới lạ, Aristoteles là người đầu tiên đã lập nên vườn bách thảo và sở bách thú trên toàn thế giới.
Ngoài sự ủng hộ của Alexandros, Aristoteles còn bỏ vào đó một số vốn rất lớn, ông là một người có nhiều tiền của nhờ cưới vợ giàu và có quyền thế, có lần bên nhà vợ đã tặng Aristoteles một số tiền tương đương với 4 triệu Mĩ kim theo thời giá hiện nay để dùng vào việc nghiên cứu khoa học.
Có người cho rằng chính Aristoteles đã khuyến cáo Alexandros chinh phục Ai Cập với mục đích thám hiểm vùng thượng lưu sông Nin để biết rõ nguyên nhân những trận lụt xảy ra ở Ai Cập. Ngoài ra, Aristote còn sưu tầm 158 bản hiến pháp.
Nhưng những phương tiện nghiên cứu của Aristoteles vô cùng thô sơ so với những phương tiện nghiên cứu tối tân ngày nay. Ông phải đo lường thời gian mà không có đồng hồ, đo lường nhiệt độ mà không có nhiệt kế, xem thiên văn mà không có kính thiên văn, đoán thời tiết mà không có áp kế. Những phương tiện duy nhất mà Aristoteles đã sử dụng là một cái thước và một cái la bàn. Sức hút của Trái Đất, hiện tượng phát điện, áp lực không khí, nguyên lý ánh sáng, nhiệt lượng và hầu hết những lý thuyết tân tiến của khoa học hiện đại đều hoàn toàn chưa được phát minh.
Trong tác phẩm Meteorology, Aristotle cũng đắm mình trong các ngành khoa học trái đất. Ông không chỉ nghiên cứu về thời tiết. Trong Meteorology, Aristotle xác định chu kỳ nước và thảo luận về các chủ đề từ thảm họa thiên nhiên cho tới các hiện tượng chiêm tinh. Mặc dù nhiều quan điểm của ông về Trái đất vẫn còn gây tranh cãi vào thời điểm đó, song chúng lại được chấp nhận và phổ biến vào cuối thời Trung Cổ.
Triết học
Aristotle đã thiết lập một phương cách mới tiếp cận với triết học bắt đầu bằng quan sát và trải nghiệm trước khi đi tới tư duy trừu tượng. Một trong những trọng tâm chính của triết học Aristotle là khái niệm về logic mang tính hệ thống.
Mục tiêu của Aristotle là đưa ra một quá trình lý luận toàn cầu cho phép con người học được mọi điều về thực tế. Qúa trình ban đầu bao gồm việc mô tả các vật thể dựa trên đặc tính, trạng thái và hành động của chúng.
Trong các luận thuyết triết học của mình, ông cũng thảo luận về việc con người có thể có được các thông tin về vật thể thông qua việc loại trừ và suy luận. Với Aristotle, loại trừ là một lý luận hợp lý. Thuyết loại trừ của ông là nền tảng của thứ mà các nhà triết học ngày nay gọi là phép tam đoạn luận.
Các tác phẩm chính
Những tác phẩm của Aristoteles lên đến hàng trăm cuốn. Có nguồn tin bảo 200 cuốn, có người bảo 400 cuốn, nguồn tin khác nữa bảo 1.000 cuốn. Những cuốn còn lại đến nay chỉ là một số nhỏ nhưng cũng có thể lập thành một tủ sách.
Các tác phẩm của ông là kết quả nghiên cứu của ông trải qua nhiều lĩnh vực. Những tác phẩm về luận lý dạy các cách xếp đặt và phân loại các ý nghĩ. Rồi đến các tác phẩm khoa học như vật lý học, thiên văn học, khí tượng học, vạn vật học, những sách nói về sự phát triển và suy tàn, về linh hồn, về cơ thể sinh vật, về cử động và về sự sinh đẻ. Loại thứ ba là những sách dạy về cách viết văn và làm thơ. Loại thứ tư là những sách về triết lý như đạo đức học, chính trị học và siêu hình học.
Toàn thể các tác phẩm có thể xem là một bộ bách khoa của Hy Lạp nhưng khác với bộ bách khoa của các nước khác ở chỗ chỉ do một người viết ra. Công trình của Aristoteles xứng đáng được so sánh với công trình của Alexandros. Văn chương của Aristoteles không bóng bẩy và thi vị như của Platon, đó là một loại văn chương chính xác và khoa học. Aristoteles phải đặt thêm nhiều từ ngữ mới để có thể diễn tả tư tưởng. Những từ ngữ Âu Mĩ hiện nay phải mượn ở những tác phẩm của Aristotle như faculty, mean, maxim, category, energy, actuality, motive, principle, form.... Những chữ này không khác gì những viên gạch để xây dựng tư tưởng và góp phần rất lớn trong công cuộc phát triển tư tưởng đời sau. Aristoteles còn viết nhiều tác phẩm văn chương nhưng đến nay đã thất truyền.
Có người cho rằng những tác phẩm của Aristoteles không phải do chính Aristotle soạn thảo mà do các môn đệ soạn thảo sau khi ghi chú các bài giảng của Aristoteles. Phần lớn những tác phẩm này được xuất bản sau khi Aristoteles qua đời. Chỉ có một số ít tác phẩm về luận lý và văn chương được xuất bản khi Aristoteles còn sống. Một số những tác phẩm khác về siêu hình học và chính trị được sưu tầm từ đống giấy tờ do Aristoteles để lại. Có người cho rằng trong tất cả các tác phẩm và Aristoteles chúng ta có thể tìm thấy một lối viết văn giống nhau, điều này chứng tỏ rằng các môn đệ của Aristoteles thấm nhuần tư tưởng của thầy một cách sâu xa, nếu không phải tự tay Aristoteles soạn thảo ra các tác phẩm của mình thì các tư tưởng trình bày chắc chắn là của Aristoteles.
Học trò của ông, Theophrastus đã trông nom những tác phẩm này, sau đó chuyển chúng cho học trò Neleus – người đã cất giữ chúng trong một hầm mộ để tránh ẩm ướt cho tới khi được đưa tới Rome và được các học giả ở đó sử dụng. Trong số khoảng các tác phẩm của Aristotle, chỉ có 31 tác phẩm vẫn còn đang được lưu giữ. Hầu hết được viết trong thời gian Aristotle ở Lyceum.
Các tác phẩm chính của Aristotle về logic gồm có: Categories, On Interpretation, Prior Analytics và Posterior Analytics. Trong đó, ông có thảo luận về hệ thống lý luận và hệ thống phát triển các lập luận âm thanh của mình.
Aristotle cũng sáng tác một số tác phẩm nghệ thuật, trong đó có “Rhetoric”, và tác phẩm khoa học như “On the Heavens”, sau đó là “On the Soul”, trong đó ông chuyển từ thảo luận về thiên văn học sang nghiên cứu tâm lý con người. Các tác phẩm của ông về cách con người nhận thức thế giới tiếp tục là nền tảng cho nhiều nguyên lý của tâm lý học hiện đại.
Cái chết và di sản
Năm 322 TCN – chỉ một năm sau khi ông chạy trốn tới Chalcis, Aristotle mắc bệnh về tiêu hóa, sau đó qua đời.
Sau khi nhà đại Hiền Triết Aristoteles qua đời, nền triết học của ông được giảng dạy tại Trường Lyceum do các môn đệ thuộc nhiều thế hệ sau. Một trong các nhà triết học này là Kritolaos đã qua kinh thành Roma vào năm 155 TCN, nhờ đó người La Mã được biết tới nền Triết Học Hy Lạp.
Vào năm 50 TCN, Andronicus người đảo Rhodes, đã cho ấn hành nhiều tác phẩm của Aristoteles và nhờ đó mà nhiều học giả đã học tập và phân tích nền Triết học kể trên, đặc biệt tại thành Alexandria.
Sau khi Đế quốc La Mã suy tàn, kiến thức về nền Triết học của Aristoteles bị hầu như lãng quên, nhất là trong khoảng thời gian từ năm 500 SCN tới thế kỷ thứ 9. Sang thế kỷ 9 này, các học giả người Ả Rập đã dịch các tác phẩm của Aristotle sang ngôn ngữ của họ và đưa chúng vào thế giới Hồi giáo.
Nhà triết học người Tây Ban Nha gốc Ả Rập tên là Averroes vào thế kỷ 12 là học giả danh tiếng nhất, ông đã nghiên cứu và nhận xét về Aristoteles. Qua thế kỷ 13, các tác phẩm của Aristote-les lại được quan tâm bởi các học giả Kitô giáo, Do Thái giáo và Hồi giáo, và Thánh Thomas Aquinas, một trong các nhà triết học gây ảnh hưởng lớn mạnh nhất, đã dùng nền Triết Học của Aristoteles làm căn bản cho các tư tưởng Thiên Chúa giáo thời đó. Dante Alighieri, nhà thơ bậc nhất của thời Trung Cổ, đã gọi Aristoteles là "Bậc Thầy của những người hiểu biết".
Lý thuyết về ngành động vật học của Aristoteles đã không thay đổi và được giảng dạy tại tất cả các trường học trong nhiều thế kỷ cho tới khi nhà khoa học người Anh, Charles Darwin, đề cập tới Thuyết tiến hóa vào thế kỷ 19.
Học thuyết của Aristoteles cũng giữ một vai trò quan trọng trong bộ môn Thần học và trước thế kỷ 20, môn Luận Lý được coi là của Aristoteles.
Nói riêng về những ảnh hưởng tới triết học, các tác phẩm của Aristotle đã ảnh hưởng tới các tư tưởng từ thời kỳ cuối cổ đại tới thời kỳ Phục Hưng.
Ảnh hưởng của Aristotle tới tư tưởng phương Tây trong ngành khoa học xã hội nhân văn phần lớn được coi là không có người thứ hai, ngoại trừ sự đóng góp trước đó của thầy ông là Plato, và thầy của Plato là Socrates. Việc diễn giải và tranh luận về những tác phẩm triết học của Aristotle đến nay vẫn còn tiếp tục.
47 câu nói trường tồn của Aristotle
Chúng ta cùng chiêm nghiệm những chân lý về thành công và cuộc sống mà Aristotle để lại qua những câu danh ngôn bất hủ dưới đây.
1. Giá trị cuối cùng của cuộc sống nằm ở khả năng thức tỉnh và suy nghĩ, chứ không chỉ nằm ở sinh tồn.
2. Những thứ được thực hiện lặp đi lặp lại mỗi ngày đã tạo nên “chúng ta”, bạn sẽ phát hiện ra sự ưu tú không phải là một hành động, mà là một thói quen.
3. Nuông chiều ham muốn của bản thân là điều tai hại nhất, bàn luận về chuyện riêng tư của người khác là điều xấu xa nhất, không nhận thức ra được lỗi lầm của mình là nỗi đau lớn nhất.
4. Tôn trọng cấp trên là bổn phận, khiêm nhường với những người đồng cấp là ôn hòa, khiêm tốn với cấp dưới là cao thượng, khiêm nhường với tất cả mọi người là an toàn.
5. Hạnh phúc là đặt tâm hồn vào vị trí thích hợp nhất.
6. Những người vượt qua nỗi sợ hãi mới là những người có thể đạt được sự tự do thực sự.
7. Thời gian có thể nghiền nát mọi thứ: mọi thứ đều bị già đi bởi sức mạnh của thời gian, bị lãng quên khi thời gian trôi qua.
8. Tôi tin rằng những người chiến thắng được ham muốn của bản thân còn dũng cảm hơn những người chiến thắng được kẻ thù.
9. Giáo dục là vật trang trí của người giàu, là vũ khí thoát nghèo của người nghèo.
10. Mục đích của công việc là để có được sự rảnh rỗi.
11. Những người đối với ai cũng coi là bạn bè, thực ra là người ít bạn nhất.
12. Bí mật của hài hước là sự bất ngờ.
13. Có 7 lý do quyết định hành động của loài người: cơ hội, bản tính, ép buộc, thói quen, lý trí, đam mê và ham muốn.
14. Những con chim có lông vũ giống nhau tự nhiên sẽ tụ tập lại với nhau.
15. Gốc của giáo dục là đắng, nhưng quả của chúng lại rất ngọt.
16. Trí tuệ không chỉ tồn tại trong kiến thức, mà còn ở khả năng vận dụng kiến thức.
17. Sự chủ quan đóng một vai trò to lớn, thái độ quyết định thành bại. Lý do tại sao rùa thắng thỏ trong cuộc thi chạy đã phản ánh rất rõ điều này!
18. Tôi yêu cô giáo của mình, tôi yêu chân lý nhiều hơn.
19. Mục tiêu của một người đàn ông khôn ngoan không phải là theo đuổi hạnh phúc, mà là tránh bất hạnh hết mức có thể.
20. Kẻ xấu phục tùng vì sợ hãi, người tốt phục tùng vì tình yêu.
21. Chúng ta không thể dùng trí tuệ để tác động đến người khác, nhưng tình cảm lại làm được điều này.
22. Loại người nào sẽ lặp đi lặp lại hành động ấy.
23. Ngay cả Thượng đế cũng không thể thay đổi quá khứ.
24. Bạn bè thực sự sẽ không đặt bất cứ thước đo nào ở giữa.
25. Tập thể dục quá nhiều hay quá ít, cũng đều gây ra thiệt hại về thể chất, chế độ ăn quá nhiều và quá ít, cũng đều gây hại cho sức khỏe, chỉ có điều độ mới có thể tạo ra, thúc đẩy, duy trì sức mạnh thể chất và sức khỏe.
26. Tiến bộ trong khoa học những lạc hậu về đạo đức không gọi là tiến bộ, mà là thụt lùi.
27. Sự nghiệp là sự thống nhất sống động của ý tưởng và thực tiễn.
28. Những người nghiêm túc học hỏi hành động của những người cao quý, trong khi những kẻ phù phiếm bắt chước hành động của những người đáng khinh.
29. Những thói quen xấu đều được hình thành trong vô thức.
30. Khi gặp khó khăn, tìm bạn là điều cần làm, nhưng khi thuận lợi, tìm bạn là cao thượng.
31. Cuộc sống luôn ngập tràn cơ hội và thay đổi, khi bạn đắc ý nhất là khi bất hạnh lớn nhất ghé thăm.
32. Đẹp là một lợi thế tự nhiên.
33. Thư giãn và giải trí là hai yếu tố không thể thiếu trong cuộc sống.
34. Nhàn rỗi tất nhiên là một loại hạnh phúc.
35. Trở thành người tốt chỉ có một con đường, những làm người ác lại có vô vàn lối đi.
36. Hạnh phúc nằm ở sự tự cung tự cấp.
37. Đối với những người trẻ tuổi, bạn bè là những cố vấn nhắc nhở họ đừng phạm sai lầm; đối với người già, bạn bè là những trợ lý giúp bổ sung sức lực thể lực đã cạn kiệt và để ý đến những khó khăn của họ; đối với người trưởng thành, bạn bè là cánh tay đắc lực giúp họ hoàn thành giấc mộng vĩ đại của mình.
38. Khát khao tiền bạc giống như một con thú tham lam, bạn sẽ chẳng bao giờ biết được tuổi trẻ quý giá bị chôn vùi dưới chân mình như thế nào.
39. Tức giận là đáng khen ngợi nếu bạn có thể làm được như sau: ở đúng nơi, dùng cho đúng đối tượng, đúng thời điểm và đúng lý do.
40. Sự xuất sắc không bao giờ là một điều ngẫu nhiên. Nó là kết quả của một mục đích cao, nỗ lực thực sự, và sự thực thi thông minh; nó đại diện cho sự lựa chọn thông thái trong rất nhiều lựa chọn thay thế – lựa chọn chứ không phải cơ hội quyết định số phận của bạn.
41. Bạn sẽ chẳng làm được điều gì ở thế giới này nếu thiếu lòng dũng cảm. Nó là phẩm chất tốt đẹp nhất của tâm hồn kế đến là danh dự.
42. Hiểu được bản thân là nguồn khởi đầu của mọi trí tuệ.
43. Giáo dục trí óc mà không giáo dục đạo đức thì không giáo dục được điều gì cả.
44. Những người giáo dục trẻ em thành công thường được tôn vinh hơn là người đã sinh ra chúng; bởi người sinh ra chúng đã cho chúng cuộc sống, còn họ dạy chúng sống sao cho tốt.
45. Làm việc có niềm vui mới khiến công việc được hoàn hảo.
46. Học tập không phải là trò chơi con trẻ, chúng ta không thể học được gì nếu không bị tổn thương.
47. Mọi hành động của con người đều do một trong bảy nguyên nhân này: cơ hội, tự nhiên, sự thúc ép, thói quen, lý trí, đam mêm và mong muốn.
Theo wikipedia, vietnamnet.vn; tapchidoanhnhan.org; Người thành công (Youtube)
Xem thêm